Hướng dẫn soạn bài: Hạnh phúc của một tang gia
Soạn bài hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng
Từ lâu nhiều người đã kể Số đỏ của Vũ Trọng Phụng vào hàng những tác phẩm xuất sắc nhất của thể loại trào phúng trong văn xuôi Việt Nam.
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
Vũ Trọng Phụng (1912 – 1939) quê ở làng Hảo (Bần Yên Nhân), huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, nhưng ông sinh ra, lớn lên và mất ở Hà Nội. Ông viết văn sớm, có truyện đăng báo từ 1930. Vũ Trọng Phụng viết nhiều thể loại nhưng nổi tiếng với hai thể tiểu thuyết và phóng sự. Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng tập trung vạch trần những ung nhọt thối tha trong xã hội Việt nam những năm ba mươi. Những lố lăng, kệch cỡm của lối sống Âu hoá nửa vời, những sản phẩm nhục nhã của văn hoá nô dịch đã được ghi nhận bằng một ngòi bút sắc sảo, cay nghiệt và đanh đá. Phóng sự, tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng thể hiện thái độ gay gắt của ông với xã hội đương thời. Vì lao động quá sức, nhà văn đã mắc bệnh lao và mất khi còn rất trẻ, lúc mới 27 tuổi.
Số đỏ là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng. Tác phẩm là một vở đại hài kịch nhiều màn phản ánh chi tiết một Tấn trò đời. Mỗi chương là một tiếng cười sâu cay của tác giả ném vào mặt xã hội đương thời.
Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia thuộc chương XV của tác phẩm. Qua miêu tả một đám tang, nhà văn đã vạch trần thói đạo đức giả của một đại gia đình bất hiếu, từ đó phản ánh sự xuống cấp của đạo đức xã hội. Tính chất trào phúng của đoạn trích thể hiện :
+ Tình huống đầy mâu thuẫn: tang gia hạnh phúc. Cái chết của cụ tổ làm cho đám con cháu sung sướng. Niềm hạnh phúc lớn nhất, lâu bền nhất và chung nhất mà cái chết cụ Tổ mang lại cho mọi thành viên trong gia đình là được thừa hưởng tài sản. Thản nhiên khi miêu tả đám tang, nhà văn đã ném vào cái “xã hội chó đểu” những lời chửi cay nghiệt nhất.
+ Đám tang rất to, đầy đủ nhưng xô bồ, láo nháo, con cháu và người đi đưa đều chẳng chú ý gì đến người chết.
Qua đám tang nhà văn đã khái quát bộ mặt của xã hội Việt Nam trong một giai đoạn vô cùng phức tạp, giai đoạn có sự chuyển đổi mạnh mẽ về nhiều mặt do có sự giao lưu với văn hoá phương Tây. Vũ Trọng Phụng đã ghi lại một cách chi tiết và chân thực hiện thực xã hội qua đó thể hiện thái độ phản ứng gay gắt của nhà văn đối với những biểu hiện tiêu cực của xã hội đương thời.
II. RÈN KĨ NĂNG
1. Tóm tắt nội dung đoạn trích:
Đoạn 1: Cái chết của cụ già và những người có công lớn nhất gây ra cái chết ấy là Xuân tóc đỏ. Tác giả tái hiện lại quá trình chạy chữa để giải thích nguyên nhân cái chết của ông cụ. Nhữ ng bài thuốc khủng khiếp của các ông lang và sự bối rối của cụ cố Hồng khi cha chết cũng được nhà văn chu ý miêu tả trong đoạn này.
Đoạn 2: Đám con cháu vô cùng hạnh phúc trước cái chết của cụ Tổ vì họ đã phải chờ đợi quá lâu. Họ vô cùng sốt ruột vì việc chuẩn bị nghi lễ được tién hành quá chậm chạp. Mỗi người một tính toán, một niềm hạnh phúc riêng nên họ háo hức chờ đợi đám tang.
Đoạn 3: Tác giả tập trung miêu tả cảnh đám tang. Đặc biệt chú ý đến những người được hưởng hạnh phúc từ đám tang này, từ người được thuê trông coi, khách dự đám đến cô Tuyết và đám con cháu. Nổi bật nhất trong đám tang là cô Tuyết với phục tang mang tên Ngây thơ. Đám tang được tổ chức linh đình. Xuân xuất hiện vào giờ chót khiến cụ bà và Tuyết rất cảm động.
Đoạn 4: Cảnh đưa tang. Đám tang được giễu qua các phố, đi đến đâu làm nhốn nháo đến đó. Những người tham gia đám tang đều rất thời trang, họ thì thầm những câu chuyện đang là mốt của thời thượng, họ tántỉnh, chim chute nhau.
Đoạn 5: Cảnh hạ huyệt. Cậu Tú Tân say sưa chụp ảnh. Cụ cố Hồng cố tỏ vẻ đau khổ, ông Phán vừa khóc than thảm thiết vừa lén trả tiền công cho Xuân vì Xuân đã gây ra cái chết của ông cụ.
2. Mâu thuẫn trào phúng cơ bản của đoạn trích là: tang gia >
Niềm hạnh phúc chung mà cái chết cụ Tổ mang lại cho mọi thành viên trong gia đình là được thừa hưởng tài sản. Họ được chia tài sản và ai cũng được phần. Ngoài ra, cả người trong gia đình và những người ngoài gia đình đều được hưởng một niềm hạnh phúc riêng.
Trong gia đình:
Cụ cố Hồng, con trai của người chết thì hạnh phúc vì được mặc áo xô gai, chống gậy lụ khụ, để mọi người nhìn vào cụ mà trầm trồ. Đợi phát phục, cụ “nhắm nghiền mắt lại để mơ màng cái lúc cụ mặc đồ xô gai…”.
Đám con cháu thì được thể hiện tài hoặc được diện những bộ đồ tang thời trang nhất mà họ vừa sáng tạo ra để khai hoá văn minh. Đứng đầu là Văn Minh, cháu đích tôn của người chết.
Đám cháu gái, cháu dâu thì hạnh phúc vì được mặc những bộ đồ xô gai thời trang, được khoe mình còn “một nửa chữ trinh” với những người đến đưa tang.
Cậu Tú Tân, cháu nội người chết, thì sung sướng vì được trổ tài chụp ảnh.
Nhà văn nhận xét: “… một bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ Tổ”. Chúng đúng là “một bầy” thú chứ không phải con người. Chắc phải chứng kiến những điều ngang tai trái mắt lắm nhà văn mới có cái nhìn và thái độ cay nghiệt như vậy.
Ngoài gia đình:
Trước hết là nhà chức trách – hai viên cảnh sát thuộc bộ thứ 18 là Min Đơ và Min Toa, “Giữa lúc không có ai đáng phạt mà phạt, đương buồn rầu như nhà buôn sắp vỡ nợ, mấy ông cảnh binh này được có đám thuê thì sung sướng cực điểm…”. Những ông bạn của cụ cố Hồng, ngực đầy huân chương đến dự đám tang thì “ai nấy đều cảm động hơn những khi nghe tiếng kèn xuân nữ ai oán não nùng” khi “trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết”. Bộ mặt của xã hội được đại diện bởi những gia đình như thế, những người cầm quyền như thế. Những kẻ đi đưa đám thì tranh thủ chim chuột nhau, bình phẩm nhau. Cả một đám ma to, danh giá, không có lấy một người đau đớn hay buồn bã khi nghĩ đến người chết. Xuân Tóc Đỏ được hưởng nhiều hạnh phúc nhất: được thưởng tiền, được gia đình cụ cố Hồng biết ơn và nhất là được danh giá, nổi tiếng hơn.
3. Khi miêu tả đám tang, tác giả đã kết hợp đầy dụng ý giữa tả cận cảnh và toàn cảnh.
Toàn cảnh đám tang khiến cho người đọc hình dung được sự nhốn nháo, pha tạp Tây Tàu của đám tang. Nó làm lộ rõ vẻ học đòi vô học và rởm đời của tang chủ. Khi miêu tả cận cảnh, tác giả chú ý đến những hành động, những lời bàn tán thầm thì của những người đi đưa đám. Những câu chuyện chẳng liên quan gì đến người chết.
Nhà văn đã lặp lại điệp húc “Đám cứ đi…”. Điệp khúc này có ý nghĩa châm biếm, hài hước. Một đám ma hỗn độn và hài hước, pha tạp đủ thứ, học đòi đủ kiểu để khoe khoang. Xe chở người chết cứ đi, người đưa cứ chim chuột nhau, con cháu cứ hưởng thụ niềm hạnh phúc sung sướng của mình. Mỗi người một tâm lí, một mục đích khác nhau, hội tụ lại để thực hiện “nghĩa tử là nghĩa tận” với người chết. Điểm nổi bật nhất và chung nhất của đám người này là sự giả dối, thói đạo đức giả.
4. Lời văn trong đoạn trích đậm tính chất trào phúng, từ cách miêu tả đến cách đặt tên đồ vật, lối so sánh ví von, cách tạo giọng văn…
Ví dụ: cảnh sát thất nghiệp “buồn như nhà buôn vỡ nợ”, Hai ông lang “từ chối chạy chữa cũng như cá vị danh y biết tự trọng”, thuốc chữa bệnh thì “công hiệu đến nỗi họ mất mạng”, “Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”, “Thật là một đám ma to tát mà có thể làm cho…”
Cách đặt tên gọi nhân vật, đồ vật cũng rất hài hước: ông TYPN, Minđơ, Mintoa, lợn quay đi lọng, lốc bốc xoảng…
Tác giả đặc biệt chú ý miêu tả các chi tiết hài hước, dùng những câu văn miêu tả đầy tính châm biếm để đả kích, bóc trần bộ mặt đạo đức gia dối của đám con cháu đại bất hiếu và những kẻ đi đưa vô tình. Ví dụ: Những ông bạn thân của cụ cố Hồng… đều cảm động hơn khi nghe tiếng kèn xuân nữ ai oán, não nùng; Sư cụ Tăng Phú thì sung sướng và vênh váo… là cuộc đắc thắng đầu tiên của báo Gõ mõ vậy…
5. Qua đoạn trích, tác giả đã tập trung phê phán thói đạo đức giả của một lopws người trong xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX.
Đó là thói hám danh, hám lợi, thói hợm hĩnh… Cảnh đám tang là một màn bi hài kịch. Nó gợi noĩi chua xót, cay đắng cho sự xuống cấp trầm trọng về đạo đức, nhất là đạo đức gia đình. Từ đầu đến cuối tác phẩm là tiếng cười châm biếm, chế giễu, một kiểu chế giễu rất cay độc của nhà văn đối với những kẻ học đòi một cách vô học.
III. TƯ LIỆU THAM KHẢO1. Về tác giả … “Sáng tác và thế giới quan Vũ Trọng Phụng khác phức tạp và có nhiều mâu thuẫn. Cuộc sống nghèo khổ bị hắt hủi, có thời kỳ ít nhiều chịu ảnh hưởng cách mạng, khiến Vũ Trọng Phụng rất căm ghét cái xã hội thực dân phong kiến đầy bất công, thối nát đương thời, do đó ông đã dựng lên nhiều bức tranh xã hội sinh động bằng ngoài bút đả kích sắc sảo. Nhưng sống trong cái môi trường chật hẹp, toàn những cái xấu xa đồi bại ở thành thị, xa cách nhân dân lao động, Vũ Trọng Phụng thiếu một căn bản nhân đạo vững vàng, dễ tiếp thu ảnh hưởng của những tư tưởng tiêu cực. Vì vậy, bên cạnh những giá trị hiện thực có sức mạnh tố cáo hiển nhiên, tác phẩm Vũ Trọng Phụng có nhiều hạn chế, nhiều chênh lệch nặng nề. Chính mặt yếu này là cơ sở cho những yếu tố tự nhiên chủ nghĩa đậm nét trong nhiều sáng tác của Vũ Trọng Phụng, nhất là những tác phẩm đề cập đến cái “dâm” (Làm đĩ, Lục xì). ở đó Vũ Trọng Phụng đã xa rời chủ nghĩa hiện thực và rơi vào thứ văn học tự nhiên chủ nghĩa”. Nguyễn Hoành Khung
(Từ điển văn học, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1984)
… “Trong văn chương, tôi không bao giờ tin rằng có một cái tài nào đó chỉ nhờ biết đặt câu, dùng từ cho khéo, biến quan sát và mô tả sự vật cho tinh mà có thể tạo nên được những tác phẩm có giá trị thật sự. Văn học là tâm huyết, là thứ tư tưởng- nhiệt tình tự nó hiện hình thành những nhân vật đầy sức sống, tự nó đẻ ra những chữ có góc có cạnh, có hình, có khối, có hơi thở phập phồng trên trang giấy. Ở Vũ Trọng Phụng, cái tư tưởng- nhiệt tình ấy là gì? Ấy là cái niềm căm thù mãnh liệt đối với xã hội độc ác, bất công, vô lý và “chó đểu” thời thuộc Pháp và khát vọng muốn đập phá tan tành nó đi để xây dựng một xã hội công bằng hơn, có nghĩa lý hơn. Muốn đánh giá được niềm căm thù này cần tìm hiểu tình hình tâm lý xã hội của tầng lớn thanh niên trí thức tiểu tư sản những năm 30 và số phận bế tắc đến bi thảm của Vũ Trọng Phụng, đồng thời đặt nhà văn vào cái môi trường sống cụ thể của ông, một trong những trung tâm buôn bán và ăn chơi trụy lạc của Hà Nội cũ (phố Hàng Bạc kề bên Sầm Công, Mã Mây, Hàng Buồm…). Người thanh niên ấy, đúng vào lúc ý thức được giá trị và vai trò của cá nhân mình trong cuộc đời nhờ ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, thì đồng thời cũng nhận ra rằng mọi ngả đường sự nghiệp, công danh đều bị chặn lại một cách tàn nhẫn. Sức mạnh thô bỉ của thằng thực dân và cũng đồng tiền làm chủ tất cả. Nếu không thể lao vào bão táp cách mạng thì mọi con đường của người thanh niên muốn tìm đến vinh quang bằng đạo đức, tài năng và lao động đều không được chấp nhận. Một xã hội như vậy đẻ ra vô vàn những kẻ thờ bạo lực và đồng tiền, chúng biến xã hội thành một thứ sân khấu đại hài kịch để đóng những vai thật là nhố nhăng, bỉ ổi mà Vũ Trọng Phụng gọi là “chó đểu”, hay “vô nghĩa lý”… … Vâng, có thể nói như thế: niềm căm thù mãnh liệt đối với xã hội thực dân, tư sản tàn ác, lố bịch, đểu giả, thối nát, đó là tất cả tài năng của Vũ Trọng Phụng…”.
Nguyễn Đăng Mạnh (Vũ Trọng Phụng và niềm căm uất không nguôi.Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Sđd, tr.105-107)
2. Về tác phẩm … “Muốn đánh giá đúng một tác phẩm nghệ thuật, phải nắm được đặc điểm thể loại và khuynh hướng, cảm hứng của nó. Số đỏ là một cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Về mặt là một cuốn tiểu thuyết trào phúng, thành công của nó là đã gây được một tiếng cười, đúng hơn, một chuỗi cười ròn rã từ đầu đến cuối, thông qua một loạt tình tiết, tình huống hài hước và một loạt chân dung hí họa, biếm họa hết sức độc đáo và sinh động. Về mặt là một tác phẩm hiện thực chủ nghĩa, nó đã phát hiện được một cách chính xác và sâu sắc bản chất và quy luật khách quan của xã hội ở một phương diện quan trọng. Đặc điểm ấy của tác phẩm đặt ra một mâu thuẫn mà tác giả đã giải quyết được một cách đầy tài nghệ. Mâu thuẫn ấy là, một mặt phải dùng lối cường điệu, phóng đại một cách thoải mái – điều mà bút pháp trào phúng đòi hỏi- để tạo nên những tình huống oái oăm vô lý, những tính cách quái thai, kỳ quặc; mặt khác lại không hề được nói oan nói ức cho bất kỳ cái gì, cho bất kỳ ai mà nó đề cập đến. Mâu thuẫn ấy giải quyết trong một truyện ngắn đã khó, trong một truyện dài càng khó hơn nhiều.”.
Nguyễn Đăng Mạnh (Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Sđd, tr.119-120)