Hướng dẫn soạn bài: Ôn tập về làm văn

0

Hướng dẫn soạn bài: Ôn tập về làm văn

Mời các bạn học sinh tham khảo thêm:

Hướng dẫn soạn bài: Ôn tập phần tiếng việt

1. Ôn lại những kiến thức về các kiểu văn bản và các phương thức biểu đạt.

Gợi ý:

Trên thực tế, các thao tác thường được kết hợp vận dụng. Sự phân chia thành các phương thức biểu đạt chỉ mang ý nghĩa tương đối.

2. Ôn tập về văn bản tóm tắt: yêu cầu tóm tắt và cách làm bản tóm tắt đối với văn bản tự sự và văn bản thuyết minh.

Gợi ý:

Để tóm tắt chuyện của nhân vật chính, cần đọc kĩ văn bản và xác định:

Sau đó, dùng lời văn của mình để diễn đạt thành văn bản tóm tắt.

3. Hãy chọn và tóm tắt một văn bản sử thi, truyền thuyết hay cổ tích trong sách giáo khoa.

Gợi ý:

Tham khảo các đoạn văn tóm tắt sau:

Do sự can thiệp của Trời, Đăm Săn phải khuất phục tr­ước sức mạnh của tập tục hôn nhânnối dây và lấy hai chị em Hơ Nhị và Hơ Bhị. Đăm Săn tiếp tục có những hành động chống lại cuộc hôn nhân, chàng chặt cây smuk, cây “sinh ra Hơ Nhị và Hơ Bhị. Do vậy, Hơ Nhị và Hơ Bhị đã hai lần chết. Khi vợ chết, Đăm Săn lại khóc thương và xin thần linh cho vợ chàng sống lại. Đăm Săn đã lập nên nhiều kì tích. Trong đó, kì tích lẫy lừng hơn cả là những chiến công đánh thắng hai tù trưởng Mtao Grư­ và Mtao Mxây, hai tù trưởng đã cướp vợ chàng. Buôn làng Đăm Săn trở nên giàu mạnh. Thực hiện khát vọng siêu việt của mình, Đăm Săn đã đi cầu hôn với Nữ thần Mặt Trời nhưng thất bại và bị chết trong rừng. Đăm Săn chết, cháu Đăm Săn lại tiếp tục con đường của cậu mình.

Câu chuyện diễn ra ở vư­ơng quốc Kô-sa-la. Vua Đa-xa-ra-tha có bốn người con trai do ba bà vợ sinh ra. Ra-ma là con cả, hơn hẳn các em về tài đức. Vua cha có ý định nh­ường ngôi cho chàng nhưng vì lời hứa với bà vợ thứ Ka-kêy-i xinh đẹp nên đã đày Ra-ma vào rừng và trao ngôi lại cho Bha-ra-ta, con của Ka-kêy-i. Ra-ma cùng vợ là Xi-ta và em trai Lắc-ma-na vào rừng sống ẩn dật. Quỷ v­ương Ra-va-na lập mư­u cướp Xi-ta đem về làm vợ. Mặc quỷ vư­ơng dụ dỗ và ép buộc, Xi-ta vẫn kịch liệt chống cự. Đư­ợc t­ướng khỉ Ha-nu-man giúp đỡ, Ra-ma đã cứu được Xi-ta. nhưng sau đó, Ra-ma nghi ngờ tiết hạnh của Xi-ta và không muốn nhận lại nàng làm vợ. Để chứng tỏ lòng chung thuỷ của mình, Xi-ta đã nhảy vào lửa. Thần lửa biết Xi-ta trong sạch nên đã cứu nàng. Ra-ma và Xi-ta trở về kinh đô.

Sau khi giúp An Dương Vương xây dựng xong Loa Thành, tr­ước khi ra về, thần Kim Quy còn tặng cho chiếc vuốt để làm lẫy nỏ thần. Nhờ có nỏ thần, An Dương Vương đánh bại quân Triệu Đà khi chúng sang xâm l­ược. Triệu Đà cầu hôn Mị Châu cho Trọng Thuỷ, vua vô tình đồng ý. Trọng Thuỷ dỗ Mị Châu cho xem trộm nỏ thần rồi ngầm đổi mất lẫy thần mang về phương Bắc. Sau đó, Triệu Đà phát binh đánh Âu Lạc. Không còn nỏ thần, An Dương Vương thua trận, cùng Mị Châu chạy về phương Nam. Thần Kim Quy hiện lên kết tội Mị Châu, An Dương Vương chém Mị Châu rồi theo Rùa Vàng xuống biển. Mị Châu chết, máu chảy xuống biển thành ngọc trai. Trọng Thuỷ mang xác vợ về chôn ở Loa Thành, xác liền biến thành ngọc thạch. Vì quá tiếc thương Mị Châu, Trọng Thuỷ lao đầu xuống giếng mà chết. Người đời sau mò được ngọc trai, rửa bằng n­ước giếng ấy thì ngọc trong sáng thêm.

Thời x­ưa ở làng Chử Xá có hai cha con Chử Cù Vân và Chử Đồng Tử, nhà nghèo đến nỗi phải chung nhau một cái khố, hễ ai đi đâu thì đóng. Người cha chết, dặn lại con cứ giữ lấy khố mà dùng nhưng Chử Đồng Tử không nỡ để cha trần truồng, lấy khố đóng cho cha rồi mới chôn. Bấy giờ có một nàng công chúa tên là Tiên Dung nhan sắc tuyệt trần, tuổi đã lớn mà không chịu lấy chồng. Một lần nàng cùng đoàn tuỳ tùng chèo thuyền đi xem sông núi, khi đi đến khúc sông thuộc làng Chử Xá, Đồng Tử trông thấy vội vùi mình xuống cát. Thấy cảnh đẹp, Tiên Dung cho dừng thuyền, quây màn để tắm, vô tình nơi Tiên Dung tắm lại đúng vào chỗ Đồng Tử giấu mình. Gặp Chử Đồng Tử, biết được nguyên cớ, Tiên Dung quyết định kết duyên cùng chàng. Vì sợ vua cha, Tiên Dung ở lại sống cùng Đồng Tử. Làm ăn đã khấm khá, Tiên Dung để Đồng Tử đi ra biển tìm vật lạ đem về đổi lấy những thứ khác. Trên đường ra biển, Đồng Tử gặp một nhà s­ư tên là Phật Quang và được nhà s­ư truyền phép cho. Đồng Tử ở luôn lại để theo học rồi được Phật Quang cho một cây gậy và chiếc nón có phép lạ khi xuống núi. Sau đó, Đồng Tử và Tiên Dung rời bỏ xóm làng tìm nơi vắng vẻ để ở. Nhờ chiếc nón và cây gậy thần họ có được một cung điện lộng lẫy, với cả binh lính. Vua biết tin, cho rằng họ làm loạn, bèn sai quân đến đánh. Quân lính đến nơi thì cả cung điện cùng Đồng Tử và Tiên Dung đã bay lên trời, chỉ còn lại bãi đất không giữa đầm. Bãi ấy về sau gọi là bãi Tự Nhiên, còn đầm ấy là đầm Nhất Dạ. Thấy sự kì lạ, nhân dân lập đền thờ ngay trên bãi.

4. Tóm tắt các bài khái quát về văn học dân gian, các bài văn nghị luận trong sách giáo khoa thành những đoạn văn ngắn. 

Gợi ý:

Văn học dân gian là văn học của quần chúng lao động, có nội dung phong phú, phản ánh cuộc sống, thể hiện lí tưởng xã hội và đạo đức của nhân dân các dân tộc, chứa đựng một kho tàng các truyền thống nghệ thuật. Là những sáng tác tác tập thể, truyền miệng lưu truyền trong nhân dân, văn học dân gian dùng ngôn ngữ nói, đến với người tiếp nhận qua các hình thức lời nói, lời hát, lời kể. Ra đời từ rất xa xưa, văn học dân gian có cách nhận thức và phản ánh hiện thực riêng: phản ánh hiện thực một cách kì ảo, mô tả những sự kiện chỉ có trọng trí tưởng tượng. Căn cứ vào những đặc điểm giống nhau về nội dung và nghệ thuật, người ta chia các tác phẩm văn học dân gian thành các thể loại: thần thoại, sử thi dân gian, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười dân gian, truyện ngụ ngôn, tục ngữ, câu đố, ca dao dân ca, vè, truyện thơ dân gian, các thể loại sân khấu dân gian.

5. Ôn tập về vai trò của quan sát, tích luỹ, thể nghiệm trong làm văn tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh.

Gợi ý:

6. Quan sát tích cực có yêu cầu gì khác với xem xét thông thường?

Gợi ý: Quan sát tích cực là quan sát có chủ đích, có phương pháp, kết hợp với thể nghiệm và liên tưởng, tưởng tượng; người quan sát có ý thức tích luỹ lại những gì mình quan sát được.

7. Ôn tập về liên tưởng, tưởng tượng và vai trò của nó trong lập ý khi làm văn.

Gợi ý: Trong làm văn, liên tưởng là liên hệ các sự vật, hiện tượng với nhau để nhằm nhận ra một ý nghĩa nào đó, làm nổi bật thực chất một hiện tượng đời sống. Có nhiều cách liên tưởng: liên tưởng tương cận, liên tưởng tương đồng, liên tưởng đối sánh, trái ngược. Tưởng tượng là quá trình tái hiện và cải tạo các biểu tượng (hình ảnh) trong trí nhớ và sáng tạo ra hình tượng mới chưa từng có. Tưởng tượng thường thông qua các sự việc, kinh nghiệm có thật, biến hoá đi, mở rộng ra, biến đổi không gian, thời gian, nhân vật, tạo ra một hình tượng mới.  Liên tưởng và tưởng tượng chắp cánh cho tư duy con người thoát khỏi sự lệ thuộc vào các sự việc trước mắt, mở rộng tầm nhìn, đi vào những chỗ sâu thẳm, bí ẩn của thế giới và con người.

Các cách thức như quan sát, thể nghiệm đời sống; đọc tích luỹ kiến thức; liên tưởng, tưởng tượng; chọn sự việc, chi tiết tiêu biểu trong văn tự sự có tác dụng tạo ra nguồn ý, nguồn văn phong phú cho bài viết, bởi vì ở tất cả các kiểu văn bản, dù tính chất của ý có khác nhau, nhưng sự phong phú về ý, khả năng biểu đạt đều liên quan tới các cách thức này:

8. Vận dụng liên tưởng, tưởng tượng để viết một số đoạn văn tự sự và biểu cảm.

Gợi ý:

Tham khảo một số đoạn văn sau:

– “Ngồi xem anh Thận làm việc thật thích: có cái gì rất khoẻ rất say trong công việc của anh, sinh động và hấp dẫn lạ thường. Này đây, anh bắt lấy thỏi thép hồng như bắt lấy một con cá sống. Dưới những nhát búa hăm hở của anh, con cá lửa ấy vùng vẫy, quằn quại, dãy lên đành đạch. Những chiếc vảy của nó bắn tung toé thành những tia lửa sáng rực. Nó nghiến răng ken két, có cưỡng lại anh, nó không chịu khuất phục. Anh quặp lấy nó trong đôi kìm sắt dài, lại dúi đầu nó vào giữa đống than hồng.”

(Nguyên Ngọc – Đất Quảng)

– “Chúa làng quay ngựa lại, dọc đường gặp người bố đang lủi thủi về. Chúa làng đâm người bố, hất xác xuống khe sâu. Chúa làng cho là không ai biết việc này. Nhưng dưới khe sâu, người bố kẻ thê thảm: Chúa làng giết tôi rồi ! Và lá rừng rì rào: Chúa làng giết người ! Núi thì thầm: Chúa làng giết người ! Khe sâu róc rách: Chúa làng giết người !”

(Nguyễn Huy Tưởng – Tìm mẹ)

– “Tôi bàng hoàng khi từ đâu đó cất lên tiếng sáo diều nghiêng trầm lảnh lói – những âm thanh trong trẻo hoà vào trong trời đất mênh mông rợp bóng mây ngũ sắc. Ôi, thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ, kì lạ có thấy chăng kiếp người nhỏ bé, khổ ải và ngắn ngủi. Mẹ ơi, sao mẹ không còn sống đến hôm nay để con trò chuyện với mẹ, để con khóc với mẹ. Bà thương con, nhưng bà già rồi, con không muốn làm bà buồn khổ. Chỉ có mẹ, con tin thế, là mẹ hiểu con. Mẹ ở đâu? Nước mắt tôi chảy xuống má.”

(Nguyễn Thị Ngọc Tú – Chỉ còn anh và em)

9. Ôn tập về phương pháp thuyết minh.

Gợi ý: Các phương pháp (cũng là các thao tác) thường được sử dụng trong văn bản thuyết minh:

10. Viết đoạn mở đầu cho các bài văn thuyết minh theo các đề tham khảo trong Bài viết số 5, 6.

Gợi ý:

– Các đề bài:

(1) Giới thiệu về ca dao Việt Nam.

(2) Trình bày một số đặc điểm cơ bản của văn bản văn học.

(3) Giới thiệu đặc điểm của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.

(4) Thuyết minh yêu cầu đọc – hiểu văn bản văn học.

(5) Thuyết minh về đặc điểm của thể loại phú.

(6) Giới thiệu bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu.

(7) Giới thiệu tác gia Nguyễn Trãi.

(8) Giới thiệu bài văn bia Hiền tài là nguyên khí của quốc gia của Trần Nhân Trung.

(9) Giới thiệu bài Tựa “Trích diễm thi tập” của Hoàng Đức Lương.

(10) Giới thiệu Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ.

– Tương ứng với mỗi loại đề thuyết minh, có thể có các dạng mở bài sau:

+ Thuyết minh về tác giả văn học (đề 7): Giới thiệu họ tên, quê quán, vị trí văn học sử của tác giả được thuyết minh.

+ Thuyết minh về tác phẩm văn học (đề 6, 8, 9, 10): Giới thiệu tên tác phẩm, tác giả và nêu khái quát về giá trị của tác phẩm.

+ Thuyết minh về thể loại văn học (đề 1, 5): Giới thiệu chung về thể loại (tên gọi, định nghĩa, nguồn gốc, vị trí văn học sử).

+ Thuyết minh về một vấn đề ngữ văn (đề 2, 3, 4): Giới thiệu vấn đề sẽ thuyết minh, nêu khái quát về tầm quan trọng của vấn đề.

11. Ôn tập về luận điểm trong bài văn nghị luận.

Gợi ý: Luận điểm là tư tưởng, quan điểm của người viết đối với vấn đề nghị luận (luận đề) trong bài văn, được thể hiện dưới hình thức những câu văn có tính chất khẳng định hay phủ định. Để đạt được mục đích nghị luận, bày tỏ tư tưởng, quan điểm của người tạo lập văn bản, bài văn nghị luận nhất thiết phải có luận điểm. Luận điểm trong bài văn nghị luận phải đúng đắn, sáng rõ, tập trung, mới mẻ, có tính định hướng, đáp ứng đòi hỏi của thực tế. Ví dụ:

– Đọc sách là cách học tốt nhất, theo dõi những tư tưởng vĩ đại của vĩ nhân, là cách học thú vị nhất.

(A. Pu-skin)

– Người nào chỉ đọc đôi chút cũng đã có trình độ cao hơn nhiều so với người không đọc gì cả.

(V. Bi-ê-lin-xki)

– Đọc sách mà không suy nghĩ khác nào ăn mà không tiêu.

(E. Bur-ke)

– Đọc cuốn sách hay cũng như được trò chuyện với người bạn thông minh.

(L. Tôn-xtôi)

– Không có quyển sách nào hay đối với người dốt, không có tác phẩm nào dở đối với người thông minh.

(Đ. Đi-đơ-rô)

– Nền văn hoá ở một nước cao hay thấp không phải chỉ ở các nhà văn mà chính là ở độc giả.

– Thưởng thức nghệ thuật đòi hỏi đi từ nông đến sâu.

– Thưởng thức nghệ thuật đòi hỏi trải nghiệm của người thưởng thức.

– Người tiếp nhận có vai trò rất quan trọng trong thưởng thức nghệ thuật.

– Vẻ đẹp của tác phẩm nghệ thuật do người thưởng thức đánh giá, khám phá.

– Trong Truyện Kiều, sức mạnh của đồng tiền ngự trị, tác oai tác quái đối với sự sống của con người.

12. Ôn tập về đặc điểm, yêu cầu của đề văn nghị luận; kĩ năng phân tích đề văn nghị luận.

Gợi ý: Yêu cầu cơ bản và quan trọng nhất của một đề văn nghị luận là vấn đề nghị luận (còn gọi là luận đề). Tuỳ thuộc vào nội dung do đề văn đặt ra mà người viết lựa chọn và vận dụng các thao tác lập luận cho phù hợp. Khi gặp những đề văn nêu rõ thao tác lập luận như hãy giải thích, hãy chứng minh, hãy bình luận, hãy phân tích,… người viết cần lưu ý: đó chỉ là yêu cầu về thao tác chính cần sử dụng chứ không phải thao tác duy nhất. Không có bài văn nghị luận nào chỉ sử dụng một thao tác lập luận. Yêu cầu về nội dung cần bàn luận là yêu cầu bắt buộc mà mỗi đề văn cần phải có. Căn cứ vào tính chất của nội dung ấy, người ta thường chia đề văn nghị luận thành hai loại: đề văn nghị luận chính trị – xã hội vàđề văn nghị luận văn học.

Khi tìm hiểu đề văn nghị luận, cần chú ý: Xác định nội dung trọng tâm cần bàn bạc và làm sáng tỏ; Xác định loại đề văn nghị luận và các thao tác lập luận chính sẽ vận dụng trong bài viết; Xác định phạm vi tư liệu cần huy động, trích dẫn cho bài viết.

13. Ôn tập về kĩ năng viết đoạn văn theo các thao tác giải thích, chứng minh, diễn dịch, quy nạp.

Gợi ý:

14. Ôn tập về cách trình bày một vấn đề.

Gợi ý: Muốn trình bày một vấn đề được tốt, người nói cần đảm bảo các yêu cầu về mục đích (nói nội dung gì, nhằm mục đích gì); về đối tượng và hoàn cảnh (nói cho ai nghe, trong không gian nào, thời gian nào); về nội dung nói (lựa chọn đề tài, những nội dung chính, thiết thực); về cách trình bày,…; và nắm được các bước chuẩn bị để trình bày một vấn đề:

15. Ôn tập về yêu cầu của việc viết kế hoạch cá nhân.

Gợi ý: Một bản kế hoạch cá nhân thường gồm những nội dung: Nội dung công việc cần làm; Mục tiêu; Thời gian tiến hành, thời hạn hoàn thành; Cách thức tiến hành; Dự kiến kết quả.

Khi lập kế hoạch cá nhân, cần chú ý:

Ngoài nhan đề (có kèm theo ghi chú cụ thể kế hoạch cá nhân của tuần, tháng hay năm,…), bố cục của một bản kế hoạch cá nhân thường gồm 2 phần:

– Phần I (nếu làm để trình, báo cáo thì mới cần phần này): họ tên, tuổi, chức vụ, học vị, nơi công tác hoặc học tập, địa chỉ liên lạc,…

– Phần II: Có thể làm theo bảng sau:

16. Về đặc điểm của văn bản quảng cáo.

Gợi ý:

Đặc điểm của văn bản quảng cáo:

Leave a comment