Cây lau bên bờ Hoàng Giang chứng kiến cảnh Vũ Nương than thở rồi tự vẫn, đã kể lại câu chuyện về người con gái Nam Xương.

0

Cây lau bên bờ Hoàng Giang chứng kiến cảnh Vũ Nương than thở rồi tự vẫn, đã kể lại câu chuyện về người con gái Nam Xương.

   Thân phận lau lách, cỏ dại như chúng tôi đã đứng bên bờ Hoàng Giang từ thời nào không ai nhớ nổi. Cùng với thời gian, chúng tôi chứng kiến bao cảnh đời, con người, bao câu chuyện buồn vui. Trong rất nhiều câu chuyện để lại cảm xúc mạnh mẽ trong lòng tôi, phải kể đến câu chuyện về người thiếu phụ Nam Xương. Nàng đã chết một cách oan khuất. Còn tôi, biết được nỗi oan ấy nhưng phận cỏ cây, tôi không làm cách nào để ngăn được việc Vũ Nương trẫm mình xuống dòng Hoàng Giang. Chỉ xin kể ra đây như một cách để sẻ chia và bày tỏ sự cảm thông với nàng và những thân phận đàn bà bất hạnh còn rất nhiều trong cuộc đời này.
   Hôm ấy, vào chiều tà đang tận hưởng làn gió mát từ mặt sông đưa lên, tôi bỗng nghe xa xa, vẳng lại tiếng khóc kèm theo tiếng thở than. Tôi ra hiệu cho các bạn lau xung quanh đừng đùa vói gió nữa mà hãy lặng yên. Tiếng thở than nghe rõ hơn. Thì ra đó là tiếng một người phụ nữ. Có điều gì trong lòng mà người phụ nữ ấy phải tìm đến đây thở than, giãi bầy? Chúng tôi cố lắng nghe lời người thiếu phụ:
– Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông rất linh xin ngày chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỹ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
   Nói xong người phụ nữ ấy gieo mình xuống sông mà chết. Chúng tôi bất ngờ, bàng hoàng mà chẳng thể làm gì ngăn được cái chết ấy. Ngày hôm sau, chồng nàng và dân làng ra bến Hoàng Giang tìm vớt xác nàng nhưng không thấy. Còn chúng tôi thì nghe được câu chuyện về người thiếu phụ bất hạnh và càng xót xa thương nàng.
   Người thiếu phụ ấy là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương. Người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp. Trong làng có chàng Trương Sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Song . Trương có tính hay ghen, đối với vợ phòng ngừa thái quá. Nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Cuộc đoàn viên chưa được mấy thì nhà nước có việc đi đánh Chiêm Thành, bắt nhiều lính tráng. Trương không có học, phải ra sung binh loạt đầu. Lúc chàng ra đi bà mẹ có dặn rằng:
– Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng, biết gặp nạn thì lui, lượng sức mà đánh, đừng nên tham miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được.
   Chàng quỳ xuống đất vâng lời dạy. Nàng thì rót chén rượu đầy tiễn chồng rằng: Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi.
   Nàng nói đến đấy, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Chàng Trương lên đường. Bấy giờ nàng đã có thai. Sau khi tương biệt được mươi ngày thì nàng sinh một đứa con trai, đặt tên là Đản. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm. Nỗi buồn không thể nào ngăn được. Bà mẹ cũng vì nhớ con mà dần sinh ốm. Nàng hết sức thuốc thang, lễ Phật cầu thần, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Song bệnh thế mỗi ngày một trầm trọng hơn, bà mẹ trối lại với nàng rằng:
– Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà gượng cơm cháo. Song tuổi thọ có chừng, số trời khó tránh. Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào, không thể kịp về đền báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ.
   Bà cụ nói xong rồi thì mất. Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra.
   Qua sang năm sau, giặc Chiêm chịu trói, quân nước kéo về. Trương Sinh tới nhà thì mẹ đã từ trần, con vừa học nói. Chàng hỏi mộ mẹ rồi dắt con nhỏ đi thăm, song đứa bé không chịu, gào khóc. Sinh dỗ dành:
– Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!
   Đứa con nói:
– Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít.
   Chàng ngạc nhiên gạn hỏi. Đứa con nói:
– Khi ông chưa về đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến. Mẹ đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.
   Tính chàng hay ghen, nghe đứa con nói vậy, tin chắc đinh ninh là vợ hư, không còn cách gì tháo cởi ra được.
   Về đến nhà, mắng vợ một bữa cho hả giận.  Nàng khóc mà rằng:
– Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa tía. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguội lòng, ngõ liễu đường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin trần bạch để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.
   Chàng vẫn không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia từ ai nói ra thì giấu không kể lời con nói; chỉ thường thường mắng mỏ nhiếc móc và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng bất đắc dĩ nói:
– Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa. Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than vãn như tôi đã kể ở phần trên.
   Đêm đến, một mình phòng không vắng vẻ, chàng Trương không sao ngủ được. Chợt đứa con nói rằng:
– Cha Đản lại đến rồi!
   Chàng hỏi đâu. Nó trỏ bóng chàng ở trên vách:
– Đây này! Thì ra khi chàng đi vắng, nàng thường đùa trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Bấy giờ chàng mới hiểu ra nỗi oan của vợ, nhưng đã chẳng làm gì được nữa.
   Thế rồi một hôm, chúng tôi thấy chàng Trương lập một đàn trong ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Hóa ra, chàng lập đàn tràng theo lời nhắn của Vũ Nương. Chuyện lạ, cùng làng với nàng, có người tên là Phan Lang khi trước làm đầu mục bến đò Hoàng Giang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh, đến kêu xin tha mạng. Sáng dậy, Phan thấy có người phường chài đem vào biếu một con rùa mai xanh, sực nghĩ đến chuyện mộng, nhân đem phóng sinh con rùa ấy. Cuối đời Khai Đại nhà Hồ, quân Minh mượn tiếng đưa Trần Thiêm Bình về nước, phạm vào cửa ải Chi Lăng. Phan và người làng sợ hãi phải chạy trốn ra ngoài bể không may đắm thuyền đều chết đuối cả. Thây Phan Lang giạt vào một cái động rùa ở hải đảo, bà Linh Phi trông thấy nhận ra vị ân nhân cứu sống mình xưa. Linh Phi bèn sai lấy khăn gấm mà lau, lấy thuốc thần mà đổ, một chốc Phan Lang liền tỉnh lại.  Linh Phi bấy giờ cười bảo Phan rằng:
– Tôi là Linh Phi, phu nhân của Nam Hải Long Vương. Nhớ hồi còn nhỏ đi chơi ở bến sông, bị người phường chài bắt được, ngẫu nhiên báo mộng, quả được nhờ ơn. Gặp gỡ ngày nay, há chẳng phải lòng trời có ý cho tôi một dịp đền ơn báo nghĩa. Phi bèn đặt yến ở gác Triệu Dương để thết đãi Phan Lang, dự tiệc còn có vô số những mỹ nhân bận quần nhẹ và búi tóc xễ. Trong số có một người, mật chỉ hơi điểm qua một chút son phấn trông rất giống Vũ Nương. Phan thường nhìn trộm luôn, nhưng không dám nhận. Tiệc xong, người ấy bảo với Phan Lang rằng:
– Tôi với ông vốn người cùng làng, cách mặt chưa bao, đã coi nhau như khách qua đường xa lạ rồi ư?
   Bấy giờ Phan mới nhận đích người ấy là Vũ Nương. Gạn hỏi duyên do.
   Nàng nói:
– Tôi ngày trước không may bị người vu báng, phải gieo mình xuống sông tự tử. Tiên trong thủy cung thương tôi vô tội, rẽ một đường nước để cho tôi được khỏi chết, nếu không thì đã chôn trong bụng cá, còn đâu mà gặp ông.
   Phan nói:
– Nương tử nghĩa khác Tào Nga, hờn không Tinh Vệ, mà có mối hận gieo mình nơi sông. Nay thấm thoát đã một năm chầy, há lại không tưởng nhớ đến quê hương ư!
   Vũ thị nói: 
– Tôi bị chồng ruồng rẫy, thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về gặp mặt chồng!
   Phan Lang nói:
– Thưa nương tử, tôi trộm nghĩ, nhà cửa của tiên nhân, cây cối thành rừng, phần mộ của tiên nhân, cỏ gai lấp mất. Nương tử dầu không nghĩ đến, nhưng còn tiên nhân mong đợi ở nương tử thì sao? Nghe đến đây, Vũ Nương ứa nước mắt khóc rồi nói:
– Tôi có lẽ không thể gửi mình ẩn vết ở đây mãi được. Ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày. Hôm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía đựng mười hạt minh châu, sai Xích Hỗn sứ giả đưa Phan ra khỏi nước; Vũ Nương cũng đưa gửi một chiếc hoa vàng mà dặn:
– Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về.
   Về đến nhà, Phan đem chuyện kể lại với nhà Trương. Ban đầu Trương còn không tin. Nhưng sau nhận được chiếc hoa vàng, mới kinh sợ nói:
– Đây quả là vật dùng của vợ tôi xưa thật.
   Theo lời, Trương lập đàn tràng giải oan cho vợ. Chúng tôi còn hồi hộp theo dõi phía ngoài xa. Rồi quả thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiêu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau lại có đến hơn năm mươi chiếc xe nữa, cờ tàn tán lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện. Chàng Trương vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói với vào:
– Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa. Rồi trong chốc lát, những cảnh tượng ấy chim đi mất.
   Câu chuyện về người thiếu phụ bất hạnh đã qua đi rất lâu. Họ hàng nhà lau chúng tôi bên bờ sông thì không bao giờ quên được. Chỉ thầm cầu mong không bao giờ phải chứng kiến một câu chuyện đau lòng như thế nữa.

Leave a comment