Cảm nhận của anh (chị) về tiếng đàn của người kỹ nữ trên bến Tầm Dương (trong bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị)
Âm nhạc là một sự diệu kì không thể thiếu được trong đời sống tình thần của con người. Người ta đã dùng biết bao mỹ từ, bao lời văn hoa để ngợi ca cái đẹp của âm nhạc, cái sức sống mãnh liệt và niềm hi vọng vô bờ bến mà âm nhạc đã đem lại cho cuộc sống. Thơ và nhạc luôn luôn gắn liền với nhau: trong nhạc có chất thơ, trong thơ có âm điệu tiết tấu của nhạc. Thơ làm đẹp cho nhạc và âm nhạc làm đẹp cho thơ…
Nhiều nhà văn, nhà thơ đã rất thành công nhờ việc sử dụng âm nhạc một cách tài tình, khéo léo, để lại dấu ấn sâu sắc trong tác phẩm của mình. Trong đó phài kể đến Bạch Cư Dị với khúc Tỳ bà hành. Có thể nói, Bạch Cư Dị đã rất thành công trong việc sử dụng ngôn ngừ vừa giàu hình ảnh, âm thanh; vừa có nhạc điệu, tiết tấu để diễn tà cái kì diệu của tiếng đàn người kĩ nữ.
Đọc Tỳ bà hành, ta cảm thấy cái say của một kẻ khát khi tỉm thấy một chén rượu ngon – tìm thấy sức sống và dường như chìm đắm trong cái say mãnh liệt của âm thanh tiếng đàn. Từng lời thơ, từng âm thanh điệu phách tình tứ cứ như thấm vào lòng người, làm rung động đến tận những chỗ sâu kín nhất của tâm hồn.
Những tưởng rằng mỉnh đang ngôi trên chiếc thuyên nhỏ, lướt hai bên bờ lau sậy đìu hiu, bồng bềnh trên dòng sông lạnh. Mảnh trăng thu treo giữa bầu trời xanh ngắt và trôi theo con thuyền dưới đáy nước. Và dường như, trước mắt ta đây là người kĩ nữ bến Tầm Dương đang nỉ non, tâm sự với khách lãng du…
Tiếng đàn của nàng lúc buổn man mác, lúc nức nở nghẹn ngào, lúc đau đớn sót xa oán hờn. Con người ta như quên đi tất cả, phút chốc thả mình bồng bềnh theo cái ma lực hấp dẫn của âm thanh kia. tiếng đàn kia. Mà có lẽ, cái ma lực của tiếng đàn. điệu phách, cùa âm nhạc còn chinh phục lòng người hơn cả những dòng chữ:
Ngón buông, bắt khoan khoan dìu dặt.
Trước Nghê Thường sau thoát Lục Yêu
Dây to dường đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ như là chuyện riêng.
Sau mấy phút “tình đã thoảng bay”, tiếng đàn cất lên dìu dặt, du dương dưới những ngón tay gảy của kĩ nữ. Lần lượt, ta được thưởng thức khúc Nghê Thường và khúc Lục Yêu – hai khúc nhạc cổ đậm đà hương sắc tình yêu mà xưa kia Dương Quý Phi đã làm Dường Minh Hoàng phải mê đám. Cả không gian tĩnh lặng, cô đơn trước đó giờ như trở nên ấm áp, rung động lòng người đến lạ thường.
Tiếng đàn nỉ non, khi trầm khi bổng lại có cả tiếng gió, mưa, tiếng của thiên nhiên đất trời. Tiếng đàn mang cả cái náo nhiệt của cuộc sống nhưng có lúc lại mang nỗi niềm thủ thỉ tâm tình của lòng người… Rồi từ đó, dường như nỗi lòng kĩ nữ cất cao tiếng hát tâm tình. Tiếng đàn chính là nơi gửi gắm và bộc lộ nỗi lòng đó. Mỗi tiếng đàn là một hạt châu long lanh nảy từ mâm ngọc làm hoa nở, chim oanh ríu rít. có cả tiếng suối, tiếng nước chảy trong vắt, khi róc rách ri rầm. lúc nhanh, lúc chậm:
“Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy,
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu.
Trong hoa oanh riu rít nhau,
Nước tuôn róc rách, chảy mau xuống ghềnh.
Có lẽ, chính các sức sóng mảnh liệt của âm nhạc đã tạo ra sự kì diệu của âm thanh, của tiếng đàn đó. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã từng viết:
Phím đàn dìu dặt tay tiên
Khói trầm cao thấp, khúc huyền gần xa.
Trong như tiếng hạc bay qua,
Dục như nước suối mới sa nửa vời.
Hay:
Trong sao châu nhỏ duyềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc lam điền mới đông.
Từng giọt âm thanh buông rơi tựa như tiếng rơi quy tụ của tình hoa đất trời. Song đó cũng là “Một cung gió thảm mưa sầu – Bốn gỉây nhỏ máu năm đầu ngón tay”. Mỗi tiếng đàn là một tiếng lòng phát ra từ trái tim của người kĩ nữ. Cái âm thanh rỉ máu ấy thật sầu muộn, đau đớn và nghẹn ngào. Xót xa trong nỗi cô đơn! Tủi hờn trong phận lạnh lùng! Cái kiếp hồng nhan bạc mệnh sao thật lắm đắng cay!
Nước suối lạnh, dây mành ngừng dứt,
Ngừng dứt nên phút bật tiếng tơ,
Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ,
Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay.
Tiếng đàn còn gợi ra cà quá khứ lịch sử, về cuộc chiến tranh An Lộc Sơn, chỉ rõ cái phi nghĩa của cuộc chiến tranh đó, và dường như về ra cái khung cảnh một xã hội loạn lạc, đấy rẫy những bất công:
Bình bạc vỡ tuôn dầy dòng nước,
Ngựa sắt giong, xô xát tiếng dao…
Tiếng đàn nửa như oán trách, nửa như phẫn nộ. Au củng là bởi chính cái xã hội đó đă gây nên những khổ đau bất hạnh cho người kĩ nữ. Số phận nàng hiện lên trong tiếng đàn tài hoa: khi tuổi xuân phơi phới tài sắc tàn phai, nhạt nhoà thì bị lãng quên trong cô đơn. Trong xã hội đó, kĩ nữ bị coi như một món hàng rẻ rúng. Cái số kiếp “Sống lam vợ khắp người ta – Đến khi thác xuống làm ma không chồng” mãi đeo đẳng người kĩ nữ trong xã hội phong kiến. Dường như sự căm phẫn đau đớn của người kĩ nữ đã lên tới tột đỉnh… Người phụ nữ có tài, có tình, có sắc ấy lẽ ra phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc nhưng lại bị xã hội phong kiến tàn ác đẩy vào cuộc:
Vành lược bạc gãy tan nhịp gõ
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi.
Có thế nói, ngôn ngữ hình ảnh đã được Bạch Cư Dị kết hợp một cách nhuần nhuyễn, uyển chuyển khiến cho tác phẩm trở nên có hồn. có sức sống hơn qua sự biến hình lung linh của tiếng đàn. Nó vừa là tiếng đàn thơ ngọt ngào say đắm lòng người, lại vừa là tiếng đàn hiện thực phản ánh sâu sắc xã hội Trung Đường bấy giờ… Làm sao có thể không rung động trước một tiếng đàn như thế?…