Nghị luận bài học rút ra từ truyện Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten
Contents
- 1 A/ Dàn ý chi tiết
- 2 B/ Sơ đồ tư duy
- 3 C/ Bài văn mẫu
- 4 Nghị luận bài học rút ra từ truyện Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của la phông- ten – mẫu 1
- 5 Nghị luận bài học rút ra từ truyện Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của la phông- ten – mẫu 2
- 6 Nghị luận bài học rút ra từ truyện Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của la phông- ten – mẫu 3
Nghị luận bài học rút ra từ truyện Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten vừa được review.tip.edu.vn cập nhật mới nhất. Các em học sinh hãy tham khảo và tải đề thi theo thông tin bên dưới nhé. Chúng tôi hi vọng với đề thi này sẽ giúp các em củng cố kiến thức của mình cho những kì thi sắp tới.
Đề bài: Nghị luận bài học rút ra từ truyện “Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn La Phông-ten” của Hi-pô-lít Ten.
A/ Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
– Vài nét về tác giả Hi-pô-lít Ten: tác giả tài năng với nhiều vai trò: triết gia, sử gia, nghiên cứu văn học.
– Đoạn trích Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten trích “La Phông- ten và thơ ngụ ngôn” là một đoạn trích tiêu biểu mà thông qua việc bàn luận về hai hình tượng chó sói và cừu, tác giả đã đưa ra nhiều suy ngẫm
2. Thân bài
Bài văn nghị luận có bố cục hai phần:
+ Phần 1: Từ “Giọng chú cừu non…” đến bao nỗi buồn và tốt bụng như thế… ”, phần này có thể đặt tiêu đề: Hình tượng con cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten và trong văn của Buy-phông. Đó là hình ảnh một chú cừu nhút nhát, sợ sệt, có phần ngốc nghếch.
+ Phần 2: Phần văn bản còn lại, có thể đặt tiêu đề: Hình tượng chó sói trong thơ ngụ ngôn La Phông-ten và trong văn của Buy-phông. Sói già độc ác.
– Hai phần của bài văn đều sử dụng biện pháp lập luận so sánh. So sánh hình tượng con cừu và chó sói trong thơ ngụ ngôn La Phông-ten; trong văn của Buy-phông.
– Hai phần đều được triển khai theo trật tự: đưa cách viết của La Phông-ten trước, của Buy-phông sau. Song cách triển khai ở hai phần không giống nhau. Phần 1, nói về con cừu dưới ngòi bút La Phông-ten, tác giả không miêu tả cụ thể mà đưa ra đoạn trích bằng thơ Chó sói và cừu non của La Phông-ten. Cách triển khai như vậy đã không tạo ra sự lặp lại trong bài văn nghị luận mà vẫn có sức thuyết phục cao đối với người đọc.
3. Kết bài
– Khái quát những nét nghệ thuật tiêu biểu làm nên thành công đoạn trích: cách trình bày và sắp xếp luận điểm chặt chẽ giàu thuyết phục, dẫn chứng khoa học…
– Cho đến nay đoạn trích Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten nói riêng và công trình “La Phông- ten và thơ ngụ ngôn” vẫn được đánh giá là công trình xuất sắc của Hi-po-lít- ten.
B/ Sơ đồ tư duy
C/ Bài văn mẫu
Nghị luận bài học rút ra từ truyện Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của la phông- ten – mẫu 1
Buy-phông viết về loài cừu và loài chó sói bằng ngòi bút chính xác của một nhà sinh vật học. Ông đã nêu lên những đặc tính cơ bản của từng loài, mô tả và chỉ ra những đặc tính ấy .
Với mục đích làm nổi bật hình tượng con cừu và con chó sói dưới ngòi bút nghệ thuật tài tình của nhà thơ ngụ ngôn, H. Ten đã dẫn ra những dòng viết về hai con vật ấy của nhà khoa học Buy-phông để so sánh và đối chiếu. Lập luận trong đoạn văn được trình bày theo thứ tự 2 bước: Chó sói và cừu dưới ngòi bút của La Phông-ten và dưới ngòi bút của Buy-phông. Ở bước thứ nhất, bằng cách lấy ngay đoạn trích từ bài thơ ngụ ngôn Chó sói và cừu, tác giả đã khéo léo nhờ La Phông-ten tham gia vào lập luận của mình, vì vậy mà giọng văn trở nên sinh động hơn, cuốn hút hơn.Như cừu thì nhút nhát, hiền lành: Chỉ một tiếng động nhỏ bất thường đủ làm cho chúng nháo nhào co cụm lại với nhau, và đã sợ sệt như thế lại còn hết sức đần độn, vì chúng không biết trốn tránh nỗi nguy hiểm. Thậm chí dường như chúng không cảm thấy tình huống bạt tiện của chúng; chúng ở đâu là cứ đứng nguyền tại đấy, ngay dưới trời mưa, ngay trong tuyết rơi. Chúng cứ đứng lì ra, muốn bắt chúng di chuyển nơi khác và bước đi, cần phải có một con đầu đàn người ta bảo nó đi trước và thể là tất cả bắt chước nhất nhất làm theo. Ngay con đầu đàn ấy cũng cứ ỳ ra cùng với cả đàn nếu không bị gã chăn cừu thôi thúc hoặc bị chó xua đi. Buy-phông cũng nhấn mạnh đến bản năng của chó sói, một loài thú dữ sống trong môi trường hoang dã: Chó sói thù ghét mọi sự kết bè kết bạn, thậm chí ngay cả với đồng loại chó sói của nó. Khi ta thấy nhiều con chó sói tụ hội với nhau, thì đấy không phải là một bầy chỏ sói hiền hòa mà là một bầy chó sói chinh chiến, ồn ào ầm ĩ với những tiếng la hú khủng khiếp và nhằm để tấn công một con vật to lớn, như con hươu con bò, hoặc để chống trả một con chó gộc nào đấy. Khi cuộc chinh chiến đã xong xuôi, chúng lại mỗi con một nơi và quay về với sự lặng lẽ cô đơn của chúng. Tóm lại, bộ mặt lấm lét, dáng vẻ hoang dã, tiếng hú rùng rợn, mùi hôi gớm ghiếc, bản tính hư hỏng, cái gì cũng làm ta khó chịu, nó thật đáng ghét, lúc sống thì có hại chết rồi thì vô dụng…
Nhà khoa học Buy-phông không nhắc đến “tình cảm mẫu tử thân thương” của loài cừu vì không phải chỉ ở loài cừu mới có. Ông cũng không nhắc đến “nỗi bất hạnh” của chó sói, vì đấy không phải là nét cơ bản của nó ở mọi nơi, mọi lúc.
H.Ten nhận xét thêm: Mọi chuyện ấy đều đúng, nhưng các con vật đó còn thân thương và tốt bụng nữa. Thật cảm động thấy con cừu mẹ chạy tới khi nghe tiếng kêu rên của con nó, nhận ra con trong cả đám đông cừu kia, rồi đứng yên trên nền đất lạnh và bùn lầy, vẻ nhẫn nhục, mắt nhìn lơ đãng phía trước, cho đến khi con đã bú xong. La Phông-ten đã động lòng thương cảm với bao nỗi buồn rầu và tốt bụng như thế… Hình tượng con cừu trong thơ ngụ ngôn La Phông-ten vừa cụ thể vừa khái quát. Trong cách tả và kể, nhà thơ có dụng ý rõ ràng. Nhà thơ chọn một chú cừu non (còn gọi là con chiên) và đặt chú cừu non ấy vào hoàn cảnh đặc biệt, đối mặt với con chó sói già bên dòng suối. La Phông-ten khắc họa tính cách của cừu non qua thái độ và lời nói. Nhà thơ không miêu tả tùy tiện mà căn cứ vào một số đặc điểm vốn có của loài cừu là bản tính hiền lành, nhút nhát và vô hại.
Với trí tưởng tượng phong phú của một nhà thơ, La Phông-ten đã nhân cách hóa cừu non, để nó cũng suy nghĩ, nói năng và hành động như người:
– Xin bệ hạ hãy nguôi cơn giận
Xét lại cho tường tận kẻo mà…
Nơi tôi uống nước quả là
Hơn hai chục bước cách xa dưới này.
Chẳng lẽ kẻ hèn này có thể
Khuấy nước ngài uống phía nguồn trên.
………………………..
– Nói xấu ngài, tôi nói xấu ai,
Khi tôi còn chửa ra đời?
Hiện tôi đang bú mẹ tôi rành rành.
Chú cừu non cũng “lí sự” đâu ra đó trước lão sói già nham hiểm và độc ác: Chú uống nước phía dưới, làm sao khuấy đục nước ở phía trên nguồn được? Chú còn đang bú tí mẹ, thì làm sao có thể nói xấu lão sói từ… năm ngoái? Điều đó cho ta thấy chú cừu non vừa thông minh lại vừa cứng cỏi trước kẻ thù. Con chó sói cũng được tác giả nhân cách hóa để bản chất gian ác và điêu trá hiện lên rõ nét:
– Sao mày dám cả gan vục mõm
Làm đục ngầu nước uống của ta?
Tội mày phải trị không tha!
– Chính mày khuấy nước, ai quên đâu là
Mày còn nối xấu ta năm ngoái…
– Thế thì một mống nhà chiên
Quân bay có đứa nào kiềng sói đâu!
Chó sói vu khống cừu non đến mức trắng trợn và phi lí. Hễ cừu non “cãi” được điều này thì chó sói lại vu cho điều khác, khiến “tội” của cừu non càng ngày càng nặng. Qua “chân dung” của con sói già trong bài thơ, La Phông- ten muốn ám chỉ hạng người xấu xa, độc ác chuyên cậy thế, cậy quyền áp bức kẻ yếu đuối, luôn lấy câu chân lí thuộc kẻ mạnh làm phương châm sống ở đời. Nhà thơ chọn một con chó sói đói meo, gầy giơ xương lang thang đi kiếm mồi, bắt gặp chú cừu non đang uống nước phía dưới dòng suối. Nó muốn ăn thịt cừu non nhưng để che giấu tâm địa độc ác nên cố tình kiếm cớ bắt tội để có lí do “trừng phạt” chú cừu tội nghiệp và hợp thức hóa hành động tàn bạo của mình.
Hình tượng chó sói trong thơ ngụ ngôn La Phông-ten khác hẳn với con sói trong thế giới tự nhiên của Buy phông. H. Ten vừa phần tích vừa so sánh hình ảnh hai con chó sói để làm nổi bật sự khác nhau giữa nhà khoa học và nhà thơ. Ở nhà thơ, đó là trí tưởng tượng phong phú được vận dụng tối đa khi tả con vật và gán cho nó một vài đặc điểm tính cách của một hạng người trong xã hội. Con chó sói của La Phông-ten cũng là một bạo chúa khát máu, và khi nó nói với chú cừu non, ta nghe thấy giọng khàn khàn và tiếng gầm dữ dội của con thú điên. Nhưng một tính cách thì phức tạp. Nếu nhà bác học chỉ thấy con sói ấy là một con vật có hại, thì nhà thơ, với đầu óc phóng khoáng hơn, lại phát hiện ra những khía cạnh khác. Nhà thơ sẽ thấy con chó sói độc ác mà cũng khổ sở, tuy trộm cướp đấy nhưng thường bị mắc mưu nhiều hơn.
Nhà thơ hiểu rằng những tật xấu của chó sói là do nó vụng về, vì chẳng có tài trí gì, nên nó luôn đói meo, và vì đói nên nó hóa rồ. Ông để cho Buy- phông dựng một vờ kịch về sự độc ác, còn ông dựng một vở hài kịch về sự ngu ngốc.
Bài nghị luận văn chương của H.Ten đã dùng biện pháp so sánh hai hình tượng con cừu và con chó sói trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten với những dòng nhận xét của nhà khoa học Buy-phông viết về hai loài vật ấy nhằm làm nổi bật đặc trưng của tác phẩm nghệ thuật là sự sáng tạo. Bài thơ ngụ ngôn Chó sói và cừu là một văn bản nghệ thuật. La Phông- ten đã miêu tả chó sói là một bạo chúa độc ác, quỷ quyệt; còn chú cừu non là một thần dân một vật tế thần khổ sở, đáng thương.
Qua bài văn nghị luận của H.Ten, ta nhận thấy khi đọc các tác phẩm văn học, cần phải nắm vững đặc trưng của văn bản nghệ thuật, đó là hình tượng nhân vật được tác giả tưởng tượng, hư cấu xây đựng nên để trở thành những bức tranh sinh động về cuộc sống vừa có ý nghĩa cụ thể vừa có ý nghĩa khái quát trong xã hội.
Nghị luận bài học rút ra từ truyện Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của la phông- ten – mẫu 2
Nhà khoa học Buy-phông đã nhận xét về loài cừu, loài chó sói căn cứ vào sự quan sát tập tính tự nhiên của chúng. Nhận xét đó vừa đúng đắn vừa mang tính khách quan.
Buy-phông nhận xét về loài cừu là ngu ngốc và sợ sệt dựa trên sự quan sát trực tiếp của một nhà khoa học. Ông đã đưa ra một loạt dẫn chứng để chứng minh cho luận điểm ấy. Trước hết là vẻ sợ sệt của loài cừu. Vì sợ sệt mà chúng hay co cụm thành từng bầy, hoặc chỉ cần nghe thấy tiếng động nhỏ cũng đủ làm chúng “nháo nhào co cụm lại với nhau”. Ngoài ra, cừu còn là loại vật đần độn. Vì đần độn mà chúng “cứ đứng lì ra ”, ở nguyên một vị trí. Chúng không biết tránh những chỗ nguy hiểm, những lúc thời tiết xấu. “Chúng ở đâu là cứ đứng nguyên tại đấy, ngay dưới trời mưa, ngay trong tuyết rơi”. Chúng chỉ đi theo con đầu đàn, nhưng con đầu đàn “củng cứ ỳ ra ” nếu không có người chặn cừu thúc hoặc chó xua đi. Với loài sói, Buy-phông đưa ra kết luận: “Bộ mặt lấm lét, dáng vẻ hoang dã, tiếng hú rùng rợn, mùi hôi gớm ghiếc, bản tính hư hỏng, cái gì cũng làm ta khó chịu, nó thật đáng ghét, lúc sống thì có hại, chết rồi thì vô dụng… Buy-phông không nói đến “sự thân thương” của loài cừu và “nỗi bất hạnh ” của loài sói, bởi vì ông quan sát chúng từ đời sống thực tế, dựa trên tập tính sinh hoạt, các đặc điểm tự nhiên của chúng. Đối với loài cừu, tập tính của chúng là sống thành từng bầy, không chịu di chuyển nếu không có con đầu đàn, ngưòi chăn cừu hoặc, chó dẫn đi. Với loài sói, Buy-phông cũng rút ra kết luận từ sự quan sát trực tiếp về loài này: từ dáng điệu (bộ mặt lấm lét), những tiếng hú khủng khiếp, mùi hôi gớm ghiếc… đến bản tính độc ác.
Tóm lại, Buy-phông đã nhận xét về loài cừu và sói bằng cái nhìn của một nhà khoa học, mang tính khách quan. Ông đã nhìn chúng dưới góc độ là một con vật cụ thể, có đời sống tự nhiên, có tập tính riêng. Ông đã dựa vào những đặc tính chung nhất, tiêu biểu nhất, mang tính khái quát cao nhất của loài cừu (sống thành bầy) và loài sói (độc ác) để đưa ra kết luận. Qua đó, ta cũng thấy được sự khác nhau giữa văn bản khoa học và văn bản nghệ thuật. Văn bản khoa học không đưa ra những hình tượng biểu cảm, giàu hình ảnh mà đi vào nghiên cứu những đặc điểm tự nhiên, rút ra những kết luận về đặc tính, tính chất của sự vật. Văn bản nghệ thụật lại xây dựng sự vật thông qua hình tượng, miêu tả đòi sống tâm hồn của những con vật bằng sự tưởng tượng phong phú.
Rõ ràng, từ thế giới tự nhiên, chó sói và cừu non đã được nhà thơ La Phông-ten đưa vào thế giới văn chương với tính cách khái quát rõ nét, tiêu biểu cho những hạng người cụ thể trong xã hội. Vì vậy mà nhân vật ngụ ngôn của La Phông-ten được cả nhân loại thích thú và yêu mến. Hi-pô-lít Ten đã chỉ ra sự khác biệt giữa hai loại văn bản khoa học và văn bản nghệ thuật. Văn bản khoa học đi sâu nghiên cứu những đặc điểm tự nhiên, rút ra những nhận xét chính xác về đặc tính, về tính chất của sự vật. Văn bản nghệ thuật xây dựng hình tượng, miêu tả đời sống tâm hồn của sự vật bằng tưởng tượng của nhà văn, nhà thơ.
Nghị luận bài học rút ra từ truyện Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của la phông- ten – mẫu 3
Bài thơ Chó sói và cừu non của La Phông-ten đưa ra một tình huống đáng thương của chú cừu non (chiên con) tội nghiệp. Chú cừu non đang uống nước thì gặp sói già độc ác đang trong tình trạng “dạ trống không” nên sói đã viện mọi lí do để ghép tội cho chú cừu non. Mặc dù cừu non nói lí lẽ, trình bày sự vô tội của mình, nhưng sói không hề đếm xỉa đến lẽ phải, đã ăn thịt cừu non.
Nhà thơ La Phông-ten đã xây dựng hình tượng chú cừu non giống với thực tế. Đó là hình ảnh một chú cừu nhút nhát, sợ sệt, có phần ngốc nghếch giống như sự quan sát của nhà khoa học Buy-phông. Khi gặp sói già độc ác, cừu non rơi vào thế bị động, cố gắng dùng lí lẽ của kẻ yếu hơn để giải thích mong được thoát thân. Cừu non tôn xưng sói già là “bệ hạ ” và tự nhận mình là “kẻ hèn. Như vậy trong lí lẽ của mình, cừu non đã tự thừa nhận mình là kẻ yếu “kẻ hèn này ”, cừu non cũng không nhanh trí để chạy khỏi con sói. Nhà thơ La Phông-ten đã sáng tạo ra hình ảnh một chú cừu non có cảm xúc, biết suy nghĩ, nói năng, lập luận như con ngưòi. Ngôn ngữ đối đáp của cừu non với sói như lời của một đứa trẻ tội nghiệp trước sự bắt bí, chèn ép trị tội của một ngưòi lớn tuổi. Đối chiếu hình tượng con cừu non trong thơ của La Phông-ten với nhận xét về loài cừu của nhà khoa học Buy-phông, ta thấy có sự khác nhau. Nếu nhà khoa học Buy-phông nhận xét về loài cừu dựa trên sự quan sát trực quan về đời sống tự nhiên, về tập tính của chúng thì La Phông-ten lại xây dựng chúng bằng cảm quan của người nghệ sĩ. La Phông-ten nhìn loài vật này có đời sống tâm hồn rất phong phú: sợ sệt, nhút nhát, đáng thương, buồn rầu và cũng rất thân thương, tội nghiệp. Người nghệ sĩ xây dựng hình tượng trong tác phẩm của mình xuất phát từ thực tế khách quan. Song hình tượng này bao giờ cũng mang dấu ấn chủ quan và in đậm sự sáng tạo độc đáo của tác giả. Trong bài thơ, ta thấy chú cừu non rất thân thương, giống như lời nhận định tinh tế của Hi-pô-lít Ten (H. Ten) là “La Phông-ten đã động lòng thương cảm với bao nỗi buồn rầu và tốt bụng như thế”.
Đoạn trích của H.Ten đã vận dụng thành công biện pháp so sánh hai hình tượng cừu và chó sói trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten cùng với những nghiên cứu của nhà khoa học Buy-phông về hai loài vật ấy đã làm nổi bật đặc trưng của sáng tác nghệ thuật chính là sáng tạo, là nhìn sự vật, hiện tượng dưới nhiều góc độ hiện thực và nhân văn. Đồng thời H.Ten đã chỉ ra sự khác biệt giữa hai văn bản khoa học và nghệ thuật. Trong khi văn bản khoa học tập trung nghiên cứu về đặc điểm, tính chất tự nhiên của sự vật thì văn bản nghệ thuật lại đào sâu khai thác tâm hồn của từng nhân vật, dưới cái nhìn phong phú, đa chiều của người viết.
Trên đây là Nghị luận bài học rút ra từ truyện Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten (dàn ý – 3 mẫu)
các em có thể mở rộng hiểu biết của mình về văn bản qua việc tham khảo: Soạn văn Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten, Tóm tắt Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten, Cảm nhận về bài Chó sói và Cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten, Phân tích bài Chó Sói và Cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten