Phân tích giá trị nhân đạo trong Chiếc thuyền ngoài xa
Bài làm
Dàn ý chi tiết.
I. Mở bài.
– Một trong những ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm văn học là góp phần nhân đạo hóa con người. Tác phẩm văn học chỉ thực sự có giá trị khi nó lên tiếng vì con người, bảo vệ và ca ngợi con người, đấu tranh chống lại những cái xấu, cái ác, cái tiêu cực để cuộc sống con người ngày được tốt đẹp và hạnh phúc.
– Với ý nghĩa đó, truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu có giá trị nhân đạo sâu sắc.
II. Thân bài
1. Giải thích khái niệm:
– Nói đến giá trị nhân đạo là muốn nói đến:
+ thái độ cảm thông của nhà văn đối với số phận con người, nhất là những con người nghèo khổ, bất hạnh.
+ Đó còn là thái độ ca ngợi, khẳng định của nhà văn về những phẩm chất tốt đẹp của người lao động;
+ qua đó, nhà văn thể hiện những khao khát về một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc cho con người.
2. Những biểu hiện:
a. Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” trước nhất thể hiện ở thái độ cảm thông của nhà văn Nguyễn Minh Châu đối với cuộc sống của những con người nghèo khổ nơi vùng biển.
– Nhà văn xót xa trước cảnh nghèo khổ, đông con của những gia đình hàng chài:
+ “nhà nào cũng trên dưới chục đứa” phải sống chen chúc nhau trong những chiếc thuyền lưới vó chật hẹp.
+ Vào những vụ bắc, biển động hàng tháng, thuyền không ra biển được “cả nhà vợ chồng con cái phải ăn toàn cây xương rồng luộc chấm muối”.
– Nguyễn Minh Châu hết sức cảm thông trước tình cảnh người đàn bà hàng chài thường xuyên bị chồng đánh đập.
+ Nếu không cảm thông và xót xa cho cuộc đời bất hạnh của chị, tác giả không chú ý kĩ từng nét ngoại hình lam lũ đáng thương ở người đàn bà hàng chài
+ “khuôn mặt mệt mỏi”, “tấm lưng áo bạc thếch và rách rưới”, “cặp mắt nhìn xuống chân”, “tay buông thõng xuống”, ra vẻ người nhẫn nhục, cam chịu.
– Hơn thế nữa, nhà văn còn muốn bênh vực cho chị, không muốn chọ bị chồng đánh đập tàn nhẫn.
+ Vì vậy, trong tác phẩm, ít nhất hai lần tác giả đã để cho Phùng xông ra bênh vực cho chị đến nỗi anh phải bị thương.
+ Chúng ta có thể hiểu, nghệ sĩ Phùng cũng chính là hóa thân của nhà văn trong tác phẩm, là nhân vật mà nhà văn Nguyễn Minh Châu gửi gắm nhiều suy nghĩ và hành động của mình.
– Nhà văn cũng cảm thông với tình cảnh của người chồng vũ phu:
+ Cũng chính vì cuộc sống quá nghèo khổ lại phải lao động vất vả để nuôi cả một gia đình đông con nên “anh con trai cục tính những hiền lành”, không bao giờ biết đánh vợ xưa kia, giờ đã trở thành một người chồng vũ phu thường xuyên đánh vợ tàn nhẫn “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.
+ Có thể nói người đàn ông hàng chài thô bạo ấy là nạn nhân của cuộc sống đói nghèo, lam lũ. Lão lầm lì đánh vợ như một thói quen để giải tỏa tâm lí và nỗi khổ triền miên của đời mình.
– Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã phê phán mạnh mẽ hành động vũ phu của người chồng.
+ Ông muốn giúp người đọc thấy rõ tình trạng bạo lực trong gia đình như một mảng tối còn tồn tại trong xã hội ta những năm tám mươi của thế kỉ hai mươi.
+ Thông qua hình ảnh người chồng thường xuyên đánh vợ tàn nhẫn, tác giả đã báo động với mọi người về một hiện tượng nhức nhối của xã hội.
+ Đâu đó trong cuộc sống chung quanh ta vẫn còn sự lộng hành của cái xấu, cái ác.
+ Gióng lên một hồi chuông báo động về cái ác, Nguyễn Minh Châu muốn đấu tranh cho cái thiện được tồn tại. Đó chính là một trong những biểu hiện về giá trị nhân đạo của tác phẩm.
b. Nguyễn Minh Châu là nhà văn luôn đứng về cái đẹp, cái thiện. Đi tìm, phát hiện, ca ngợi, khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của con người, đó là biểu hiện sâu sắc của giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”.
– Trước năm 1975, trong bối cảnh lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, Nguyễn Minh Châu xây dựng những vẻ đẹp lí tưởng, yêu nước, anh hùng của con người Việt Nam thời chống Mĩ.
+ Họ là Lãm, là Nguyệt trong tác phẩm “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu.
+ Đó là những con người thật cao đẹp, họ biết hi sinh hạnh phúc cá nhân cho tình yêu Tổ quốc, biết gác lại những tình cảm của cá nhân mình cho cuộc kháng chiến của toàn dân tộc.
– Sau năm 1975, cuộc sống hiện ra nhiều chiều, nhiều mặt đối lập, Nguyễn Minh Châu đã đi sâu vào hiện thực để nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa dạng, nhiều chiều.
+ Có như vậy, ông mới phát hiện ra được những vẻ đẹp còn khuất lấp trong cái lấm láp bụi bặm của đời thường.
+ Hình ảnh người đàn bà xấu xí nhẫn nhục vẫn lóe lên vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng, một vẻ đẹp đầy nữ tính, vị tha của người phụ nữ ở một miền biển còn đói nghèo, lạc hậu.
– Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện một cái nhìn rất nhân đạo về con người.
+ Ông đã phát hiện và khẳng định nhiều phẩm chất cao đẹp ở người phụ nữ có cái vẻ bên ngoài xấu xí và cam chịu, nhẫn nhục này.
+ Bằng một cái nhìn đa dạng, nhiều chiều và sâu sắc, Nguyễn Minh Châu đã giúp ta cảm nhận được một tấm lòng vị tha và giàu đức hi sinh của chị.
– Tác giả còn giúp ta nhận ra lí do chị không thể bỏ chồng thật có lí, điều đó chứng tỏ chị không phải là mọt con người phụ nữ nông nổi, thiếu nghĩ suy, nhu nhược, hèn nhát, mà là người phụ nữ thật sâu sắc và từng trải, biết suy nghĩ, cân nhắc cho từng hành động của mình.
+ Chị cho biết: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có một người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sấp con mà nhà nào cũng trên dưới chục đứa”.
+ Nguyễn Minh Châu còn giúp ta cảm nhận được những khát vọng hạnh phúc trong lòng người đàn bà hàng chài nghèo khổ này.
. Phải yêu thương con người lắm nhà văn mới chú ý đến từng chuyển biến nhỏ trên gương mặt của chị khi nói về hạnh phúc. Nhà văn cho ta biết, khi nói về hạnh phúc, “lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí” của chị “chợt ửng sáng lên như một nụ cười”.
– Có thể nói người đàn bà hàng chài là biểu tượng cho tình mẫu tử, biểu tượng cho khát vọng hạnh phúc gia đình.
+ Thông qua suy nghĩ của chị về gia đình và hạnh phúc, tác giả đã giúp ta hiểu ra được một gia đình hạnh phúc là gia đình trọn vẹn các thành viên, cho dù trong gia đình ấy còn nhiều cảnh ngang trái, khổ đau, nhưng chị vẫn nâng niu trân trọng từng chút hạnh phúc nhỏ nhoi mà mình có được.
+ Đó là thái độ cảm thông, cái nhìn hết sức nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu đối với con người.
c. Giá trị nhân đạo của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” còn thể hiện ngay trong quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu: “Nghệ thuật chân chính phải gắn với cuộc và vì cuộc đời, vì con người”.
– Cách kết thúc tác phẩm đã gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ. Là tấm ảnh đen trắng nhưng mỗi lần nhìn vào Phùng đều thấy “hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai” và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh”.
+ Vậy thì, đây đâu chỉ là ảnh nghệ thuật mà chính là hiện thực cuộc đời. Nếu chỉ đơn thuần là ảnh nghệ thuật trắng đen thì sao lại có được “cái màu hồng hồng của ánh sương mai” do ánh mặt trời của ánh bình minh buổi sáng phản chiếu?
+ Và nếu chỉ là ảnh thì người đàn bà hàng chài ấy làm sao “bước ra khỏi tấm ảnh” để “bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm lên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông”.
+ Đó chính là quan điểm nghệ thuật mà tác giả muốn gởi gắm với mọi người: Nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc đời, nghệ thuật phải gắn bó với cuộc đời và vì cuộc đời, vì con người.
+ Mỗi một nhà văn hãy đi vào cuộc sống, hãy sống gắn bó với con người và nhìn nhận họ một cách đa dạng, nhiều chiều để phát hiện ra những hạt ngọc còn ẩn sâu trong tâm hồn họ, dù rằng ngoại hình họ xấu xí và họ đang sống trong một hoàn cảnh ngang trái, khổ đau.
– Qua tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đã đặt ra một vấn đề để mọi người cùng suy nghĩ và giải quyết. Đó là vấn đề về số phận và hạnh phúc của con người.
+ Cái nhìn của Nguyễn Minh Châu thật đa dạng, nhiều chiều. Ông thấy trong cuộc sống có cả ánh sáng và bóng tối, nước mắt và nụ cười, bề nổi và bề chìm, khổ đau và hạnh phúc.
+ Nhưng điều quan trọng nhất là ông vẫn tin vào phẩm chất tốt đẹp của con người, tin vào bản chất tốt đẹp của xã hội sẽ làm thay đổi số phận con người.
III. Kết luận
– Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu có một giá trị nhân đạo sâu sắc. Giá trị nhân đạo ấy thể hiện trên nhiều phương diện.
+ Đó là cái nhìn yêu thương, cảm thông của nhà văn về số phận bất hạnh của con người.
+ Đó là việc phát hiện và khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của những con người lao động nghèo khổ.
+ Đó còn là thái độ lên án nạn bạo hành trong gia đình để mọi người cùng đấu tranh chống lại hiện tượng tiêu cực này, cùng phấn đấu hướng tới việc xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc.
– Giá trị nhân đạo trong tác phẩm này còn thể hiện ngay trong quan điểm nghệ thuật thật tiến bộ của ông: “Nghệ thuật chân chính phải gắn với cuộc và vì cuộc đời, vì con người”.
Nguyễn Minh Châu được sinh ra ở mảnh đất Nghệ An đầy nắng gió. Ông đã từng là sĩ quan quân đội, tham gia công tác, chiến đấu trong kháng chiến. Người con trai xứ Nghệ này còn là một nhà văn, một cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới với quan điểm sáng tác rất hay: “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”.
Vâng! Con người trong cuộc sống là tiêu điểm mà Nguyễn Minh Châu rất quan tâm, tìm tòi, khám phá những điều thú vị, mới mẻ. Và nói về con người thì “toàn bộ sự nghiệp văn học của Nguyễn Minh Châu là một bài ca tràn đầy cảm hứng nhân đạo nồng nhiệt”. Với truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”(1983)- một trong những tác phẩm xuất sắc thuộc giai đoạn đổi mới- Nguyễn Minh Châu càng bộc lộ rõ nét, sâu sắc cảm hứng nhân đạo của mình. Qua những trang viết, nhà văn gửi lại cuộc đời tấm lòng ưu ái đối với những người phụ nữ làng chài lam lũ, chịu nhiều nỗi đau đớn, thiệt thòi và những đứa trẻ của kiếp vạn đò rày đây mai đó trên sông trên biển; nhà văn gửi lại những hiểu biết, khám phá sâu sắc của mình về số phận, về những cuộc đời buồn vui, dang dở.
Truyện ngắn” Chiếc thuyền ngoài xa” lấy bối cảnh là một vùng biển từng là chiến trường cũ của thời chống Mĩ. Mạch chính của truyện là những lời kể, những suy tư của nhân vật Phùng- một nghệ sĩ nhiếp ảnh, cũng từng là một người lính trực tiếp tham gia chiến đấu ở vùng biển này; nay về lại chiến trường cũ để chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Trong chuyến đi thực tế ấy, Phùng đã phát hiện ra cái mâu thuẫn éo le trong nghề nghiệp của mình: đằng sau bức tranh con thuyền mờ sương rất đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ” mà anh đã tình cờ chụp được là số phận đớn đau của một người phụ nữ, là sự nheo nhóc chẳng đẹp đẽ gì trong một gia đình lao động làm nghề chài lưới. Với cuộc sống nghèo khổ, cảnh vật vắng lặng, chỉ “vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Hình ảnh người đàn bà xấu xí trạc ngoài bốn mươi tuổi dần hiện ra với “một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch”, rỗ mặt, “mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Song song hình ảnh người đàn bà lag hình ảnh người đàn ông xuất hiện cùng “tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền, mái tóc tổ quạ”, “đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rũ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ”. Hình ảnh đã khắc hoạ phần nào cuộc sống khổ cực của họ. Chính từ cuộc sống này đã nảy sinh ra một cảnh tượng: cảnh chồng đánh vợ,”ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Tuy đã được sáng tác cách đây một phần tư thế kỉ, nhưng đề tài của tác phẩm vẫn còn rất nóng, dai dẳng đến ngày hôm nay, đó là : bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình, trong mỗi chúng ta không ai không biết nhưng qua ngòi bút của Nguyễn Minh Châu thì đề tài này được thể hiện một cách sinh động. Chúng ta sẽ không xa lạ với hình ảnh người chồng “mặt đỏ gay, hùng hổ”, rút trong người chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa, chẳng nói chẳng rằng “quật tới tấp vào lưng” người vợ, “vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ”.
Đánh vợ chưa làm hắn nguôi cơn giận, lão đàn ông quay sang đánh con- thằng Phác. Lão “liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát”. Giống như một cuốn phim quay nhanh với những cảnh chọn lọc, tiêu biểu, Nguyễn Minh Châu đã dựng trước mắt chúng ta sự tàn bạo ghê gớm của bạo lực gia đình: gia đình không êm ấm, con người bị thương tích, đau khổ. Ông đã dấy lên trong lòng người đọc nỗi xót thương pha lẫn nỗi lo âu về tình trạng phụ nữ và trẻ em bị ngược đãi, về nguy cơ trẻ em sớm nhiễm thói vũ phu, thô bạo do bị tổn thương tâm hồn, đánh mất niềm tin vào cuộc sống.
Điều mọi người lo lắng và không bao giờ dư, nó đã xảy ra với Phác- một thằng bé từ “tính khí đến mặt mũi giống như lột ra từ cha nó. Sống và chứng kiến cảnh cha mẹ đánh nhau, làm cho tâm hồn Phác chất chứa những nỗi đau âm ỉ như những đợt sóng biển phủ vào đất liền đã rút nhưng vẫn để lại cái chất mặn làm xót cây khoai, cây lúa; tâm hồn em bị tổn thương. Phác thương mẹ, hận cha; tính cách em trở nên cộc cằn, thô bạo, không hồn nhiên như những đứa bạn cùng trang lứa. Mỗi khi mẹ bị cha đánh, thằng Phác “giận dữ căng thẳng”, nó “như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm” nhảy xổ vào cha nó,”giàng lấy chiếc thắt lưng”, “dướng thẳng người vung chiếc khoá sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng” của lão đàn ông. Hay có lúc Phác dùng con dao găm làm vũ khí để bảo vệ người mẹ đáng thương của nó, nhưng đã bị người chị gái giật lại. Rồi nó tuyên bố với mọi người rằng “nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Tất cả làm cho tâm hồn Phác bị vẩn đục. Nguyễn Minh Châu như muốn nhắn nhủ mọi người hãy bảo vệ trẻ em, hãy để chúng lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, sống trong gia đình hạnh phúc, phát triển toàn diện. Đồng thời mọi người hãy tạo ra môi trường tốt đẹp cho trẻ em; cũng chính vì lẽ đó mà ở cuối truyện Nguyễn Minh Châu đã viết “sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó, mụ đã phải gửi nó lên rừng nhờ bố mình nuôi đã nửa năm nay”, như một lời thông điệp khuyên mọi người nên thay đổi môi trường sống sao cho phù hợp, tốt đẹp với trẻ em.
Bên cạnh đó, Nguyễn Minh Châu chỉ ra việc dân trí thấp, đông con và nghèo khổ là nguy cơ đáng sợ để hình thành bạo lực gia đình. Đúng vậy! Trong một lần tâm sự với nhà văn Lê Lựu, ông kể:”Quê tôi là Quỳnh Hải, thôn Kẻ Thơi, vùng Lạch Thơi, Lạch Quèn. Dữ dội lắm! Dân Lạch Thơi nhiều nơi sợ vì chỉ có uống rượu và đánh nhau. Rượu say, ngủ luôn ở bãi biển. Mỗi đêm, những người đàn bà phải đi nhặt chồng về. Cả làng làm nghề đánh cá, chài lưới chẳng học hành gì cả. Tôi còn nhớ ông Điềm mỗi khi say rượu, cởi truồng nồng nỗng, quần vắt lên vai, đi vào trong xóm, lấy quần đánh chó. Gặp ai cũng chửi tuốt nhưng vớ phải một mụ bán bánh đa ở chợ làng còn dữ dội hơn. Mụ tuột váy ra, lấy váy đánh vào mặt, lão Điềm phải thua. Lại có người uống rượu say, lấy mảnh thuỷ tinh rạch ngang bụng, ruột xổ ra rồi chết(…). Một cái làng vô học,thích ai thì nấy đúng, chẳng biết phải trái gì cả”.
Từ những lời tâm sự của Nguyễn Minh Châu, chúng ta cảm nhận dáng dấp của làng nhà văn cũng xuất hiện đâu đó trong “Chiếc thuyền ngoài xa”. Làng chài này có “đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”, “con nhà nào cũng trên dưới chục đứa”, nhà của thằng Phác cũng không phải là ngoại lệ. Vì nghề nghiệp, ít học nên có quan niệm đẻ con đông là tốt, trời sinh voi sinh cỏ nên họ đẻ ra hàng đàn con, nhưng họ có biết đâu chính họ là cái gốc cây, cái tảng đá lớn sẽ ngăn trở xã hội tiến lên con đường hiện đại hoá; làm cho nghèo khổ đeo bám không rời, phải “ăn toàn cây xương rồng luộc chấm muối” hàng tháng trời khi biển động. Rồi từ đó, cái nghèo khổ làm thay đổi tất cả, nảy sinh mâu thuẫn mới. Cái nghèo khổ làm con người ta chán nản, suy sụp, thay đổi tính tình, u uất trong người và cuối cùng, đánh đập vợ con để giải toả nỗi khổ. Đó cũng là lí do để chúng ta giải thích tại sao cha thằng Phác từ một người “cục tính nhưng hiền lành” lại trở thành một ông chồng vũ phu, đánh đập vợ ở dưới thuyền rồi lên bờ và nguyền rủa vợ con chết đi. Thật đau lòng biết bao!
Ở “mỗi con người đều chứa trong lòng những nét đẹp đẽ, kì diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ nhận thức, khám phá tất cả những cái đó”. Trong “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu tiếp tục khắc hoạ hình ảnh người phụ nữ với nét đẹp đời thường. Thái độ cam chịu, nhẫn nhục nhưng không phải mù quáng khi bị chồng đánh. Tình thương con vô hạn, tận tâm, bao bọc, che chở, cố tránh cho con khỏi bị tổn thương, luôn mang mặc cảm có lỗi. Với suy nghĩ “sống cho con chứ không thể sống cho mình” mà người đàn bà làng chài đã nhịn nhục sự vũ phu của chồng để cùng làm ăn, nuôi nấng các con và cảm thấy “vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Điều này càng thể hiện rõ khi thằng Phác nhảy vô đánh cha nó thì người đàn bà mếu máo gọi tên Phác, ôm lấy con, vái con, còn cậu bé “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt”. Hành động đó làm cho ta rơi nước mắt trước tình mẫu tử thiêng liêng của họ. Có lẽ phải đau đớn, hoảng sợ đứa con có chuyện gì lắm, một người mẹ mới chắp tay “vái lấy vái để” đứa con mình. Còn đứa con thương xót mẹ nhưng nhỏ bé, bất lực, không ngờ muốn bảo vệ mẹ lại làm mẹ khổ hơn nên chỉ biết an ủi bằng những ngón tay vụng về.
Cái hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn người phụ nữ là vẻ đẹp mẫu tính, cam chịu, cảm thông, chia sẻ, nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha, đức hi sinh và thương con tha thiết. Đây cũng chính là biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã góp phần vào nền văn học hiện đại giá trị nhân đạo về sự bảo vệ trẻ em, tạo môi trường tốt đẹp cho trẻ em hoạt động và hình ảnh người phụ nữ vừa quen thuộc vừa mới lạ; vừa bình dị lại vừa cao cả, lớn lao bởi vẻ đẹp vĩnh hằng mang ý nghĩa nhân văn.
Tác phẩm giúp chúng ta hiểu hơn tâm hồn con trẻ, cũng như trách nhiệm đối với chúng; hiểu rõ hơn những nhọc nhằn, đắng cay, được mất của con người, giữa cuộc đời đầy rẫy những đổi thay, để chúng ta nhận biết, quí trọng, nâng niu lòng nhân ái, luôn vươn tới cái đẹp, giữ vững niềm tin vào cuộc sống, vững bước đi trong cuộc đời. Một cảm hứng chủ đạo giúp Nguyễn Minh Châu viết đượ những trang văn hay nhất mang đầy giá trị nhân đạo sâu sắc.
Nguyễn Minh Châu đã mang đến những sáng tạo mới cho nền văn học trước và sau 1975, khẳng định một tay nghề vững chắc và có sức đi xa: Dấu chân người lính (1972), Miền cháy (1977), Những người từ trong rừng ra (1982), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983)…
Từ đầu thập kỉ 80 trở đi, Nguyễn Minh Châu là một trong những người tiên phong của sự nghiệp đổi mới nền vàn xuôi Việt Nam. Tiêu biểu cho sự đổi mới này, có thể kể đến tác phẩm như: Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu, Hành khách ở xa quê, Bến quê, Phiên chợ Giát…
Quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật ở Nguyễn Minh Châu trước hết thể hiện trong cách nhìn hiện thực. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (1987) được xem là một tác phẩm tiêu biểu cho cách nhìn đó.
Đọc tác phẩm Nguyễn Minh Châu, có thế hình dung khá rõ quá trình vận động tư tưởng tinh cảm cũng như những tìm tòi, đổi mới cách tiếp cận đời sống và bút pháp sáng tạo, với những đóng góp đáng trân trọng. Trong những năm tháng chiến tranh, điều người ta cần nhất ở con người (những chuẩn mực thước đo giá trị chủ yếu của nhân cách) là sự cống hiến, hi sinh cho Tổ quốc Con người được đặt trong những mối quan hệ chủ yếu (để bộc lộ những phẩm chất đạo đức cách mạng) với kẻ thù, với đồng chí, với nhân dân.
Các tác giả thời chiến tranh đã khá triệt để trong việc thi vị hóa nhân vật để khẳng định niềm tin vào tính chất “bất khả chiến bại” của cái đẹp tinh thần, của cái thiện. Sau chiến tranh, sau không khí tráng ca, mọi người có điều kiện bình tâm để nhìn lại, rõ hơn, kĩ hơn về những góc khuất cùa đời thường những phức tạp mới nảy sinh trong đời sống con người, thậm chí trong mỗi bản thân con người. Trong đó có cả chiều sâu, sự chín chắn của cái nhìn quá khứ hãy còn ấm nóng. Nguyễn Minh Châu đã làm công việc của người đi khai phá, mở đường với những ngã rẽ mà sau này, nền văn học sẽ đi qua. Tác giả viết về chiến tranh để đối diện với hai vấn đề: hồi ức đẹp đẽ và sự tự vấn lương tâm. Bức tranh là một ví dụ. Bất hạnh vẫn còn đeo bám tới hòa bình, một thứ khổ đau không có màu khói súng. Từ tác phẩm này, nhà văn gửi gắm một thông điệp khẩn thiết cùng với niềm tin ở khả năng thức tỉnh để sự hoàn thiện của những lớp son hào nhoáng của danh vọng, là những sự thật tàn nhẫn, những sự dối trá ngọt ngào, một điều thất tín đã khoét sâu thêm những mất mát tưởng như không còn nữa.
Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyền Minh Châu đã để cho người nghệ sĩ (trước là người lính) trở về vùng đất từng là chiến trường cũ. Tại đây anh đã gặp nhiều điều “trớ trêu và bất ngờ”. Nhà văn tạo điểm nhìn hiện thực bằng cách xây dựng tình huống cho tác phẩm. Đây là “tình huống nhận thực”, nét độc đáo trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu. Cách tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống. Tình huống đó là sự kiện, người nghệ sĩ trong giây phút tâm hồn thăng hoa, bất ngờ chứng kiến cảnh đôi vợ chồng từ con thuyền “thơ mộng” bước xuống, rồi lão đàn ông đánh vợ một cách tàn bạo. Tình huống này còn được lặp lại một Lần nữa. Nó có ý nghĩa bộc lộ rõ mối quan hệ, khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất tính cách, con người tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm trong cuộc đời con người, tạo ra những điều vỡ lẽ, giúp nhà văn nhìn sâu nơn vào hiện thực, vào con người, trong tình huống ấy, lão đàn ông tự lộ diện là một kẻ vũ phu, độc ác, người đàn bà thì cam chịu, nhẫn nhục. Tình huống ấy, buộc Phùng phải có một cách nhìn đời khác hẳn: không chỉ bằng con mắt một nghệ sĩ chỉ biết rung động say mê trước vẻ đẹp của ngoại cảnh thuần túy”, của cảnh biển thuyền lúc sớm mai. Đó là cái nhìn mang tính sự thật. Đằng sau bức ảnh chụp con thuyền rất đẹp, cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh, một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích mà người phóng viên đã thu được ẩn chứa một cuộc sống đầy vật lộn giống như trang văn của Nam Cao ngày trước, màn sương khói lãng mạn, thơ mộng của cảnh biển thuyền sớm mai – thứ “ánh trăng xanh huyền ảo” ban mai ấy đã che đậy những cảnh thật ra chỉ tầm thường, xâu xa (Trùng sáng – Nam Cao). Dưới màn sương lãng mạn, từ tâm hồn nhạy cảm với cái đẹp, con mắt tinh tế nhà nghề của một người nhiếp ảnh, con thuyền ngư phủ đẹp như một bút mực tàu của một danh họa thời cổ chỉ là thứ nghệ thuật xa xôi, là cái đẹp mong manh, siêu thực. Phải chăng cái “chân lí của sự toàn thiện”, cái làm nên “khoảnh khắc trong ngần” của tâm hồn vẫn chỉ là điều mà ta đang tìm kiếm, theo đuổi. Sự thực không hiện lên ở đó mà khoảng khắc ngay sau đó. Thêm một chút, nán lại, thật bất ngờ, chỉ trong giây phút, người đó. Thêm một chút nán lại, thật bất ngờ, chỉ trong giây phút người nghệ sĩ vừa thấy được cái xa mờ của nghệ thuật lại chạm trán ngay với một hiện thực trần trụi. Sự cay đắng phũ phàng đã thay thế cho niềm hạnh phúc tràn ngập tâm hồn. Từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ trong sương sớm ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, tàn nhẫn coi việc đánh vợ như một phương cách để giải tỏa uất ức. Sự ngang trái, xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là một thứ thuốc rửa quái đản, là những thước phim huyền diệu mà người nhiếp ảnh dày công chụp được bỗng hiện hình thật khủng khiếp.
Câu hỏi mà người đọc cũng như nhân vật “tôi” đặt ra là: Nguyên nhân nào khiến lão đàn ông đánh vợ? Vì sao người đàn bà không chống đỡ hay chạy trốn?
Hiện thực được miêu tả như một câu chuyện cổ tích mà kết thúc không có hậu (không có sự giái thoát cho một bi kịch gia đình, một số phận bất hạnh).
Với một khách du lịch, bãi biển đẹp như là nơi lí tưởng cần đến. Nhưng những người dân chài luôn bên biển, họ quan tâm gì tới cái đẹp của biển. Cũng như khách tham quan trầm trồi trước những bông tuyết hiếm hoi trên vùng núi Đà Lạt. Ẩn đằng sau những bông tuyết trắng ngần đẹp đẽ ấy là nỗi lo mất mùa của người nông dân, là sự rét mướt, lạnh cóng khó chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Cuộc sống người dân chài vùng biển là một cuộc mưu sinh đầy vặt lộn, lam lũ. Có những khi trời biển động suốt hàng tháng, cả gia đình vợ chồng con cái phải toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối. Gia đình họ đông con, lại không có nơi ở ổn định vì không thể bỏ nghề. Đàn ông thuyền khác thường uống rượu, còn lão chồng của người đàn bà này lúc nào thấy khổ quá lại xách vợ ra đánh như một sự trả thù cho số kiếp. Thực tế đó quả là bài toán khó, mầm độc ấy không phải thứ kẻ thù như trong chiến tranh mà một người lính đã từng cầm súng chiến đấu như nhân vật Đẩu có thể giải quyết hay thỏa hiệp, chấp nhận một cách dề dàng. Cuộc sống người dân chài vùng biển đầy giồng bão. Con thuyền ngư phú phải chống chọi với nhiều sóng gió của biển khơi trong những ngày giông bão. Nhưng còn một thứ giông bão do chính con người tạo ra, nghiệt ngã và cay đắng. Sức tàn phá, hậu quả mà nó để lại thật thê thám khủng khiếp, đau xót không kém gì giông bão tự nhiên. Đó là thứ giông bão nổi lên từ lòng thuyền, từ trong con thuyền. Đó là cuội sống đói nghèo, lam lũ mà chính con người gây ra cho con người. Nạn bạo hành trong gia đình ấy sẽ làm tổn thương những đứa trẻ, những tâm hồn lẽ ra phải được nuôi dưỡng bởi một cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Từ cái nhìn hiện thực mang tính chất khám phá, phát hiện, có chiều sâu, Nguyễn Minh Châu muốn phê phán cái nhìn lãng mạn, một chiều với cuộc sống. Nhà văn đặt ra vấn đề trách nhiệm của người nghệ sĩ, của nghệ thuật phải đào sâu, phải khám phá, nhẫn nại với thực tế, dù thực tế ấy phũ phàng (cảnh tượng đau xót người đàn ông đánh vợ, cùng một sự đời phi lí: người vợ khốn khổ xin tòa đừng bắt chị ta bỏ chồng).
Cùng từ cái nhìn hiện thực mang tính khám phá ấy, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa đưa ra cách nhìn có chiều sâu của nhà văn về con người, làm câu chuyện gây ấn tượng vang gợi lên những cảm nghĩ khác nhau về các nhân vật.
Nhân vật trung tâm trong tác phẩm là người phụ nữ, một người không có tên tuổi cụ thể, một người đàn bà bình thường như bao phụ nữ dân chài khác nhưng số phận của chị được tác giả tập trung tái hiện và được người đọc quan tâm nhất.
Con người xấu xí (ngoại hình thô kệch), mặt rỗ, lúc nào cũng xuất hiện với một “khuôn mặt mệt mỏi” ấy, nhìn chị, ta thấy cả cuộc đời lam lũ, nhọc nhằn. Nhưng trong con người xấu xí, lầm lũi, cam chịu ấy còn có một con người khác mà Phùng không hay biết. Chị có cái nhìn mà chỉ người trong cuộc mới thấy. Người phụ nữ có lẽ không bao giờ nhận thấy được vẻ đẹp của bãi biển, của con thuyền nhưng đã nhìn ra được nguyên nhân làm lão chồng mình trở nên đổi tính, trái nết (vì cuộc sống khổ quá) để mà tha thứ. Chị có thể giải thoát mình khỏi bi kịch gia đình bằng cách li hôn với chồng, nhưng lại coi bất hạnh của mình là lẽ đương nhiên bởi trong cuộc mưu sinh không dễ dàng gì trên chiếc thuyền kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề, chỉ vì có những đứa con cần được sống và lớn lên. Trong những chuỗi ngày cực nhọc, lam lũ, chị cũng biết chắt gạn niềm vui: “Ở trên thuyền, cũng có lúc vợ chồng, con ai chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi, chúng nó được ăn no”. Vậy là cái vỡ ra trong đầu Đẩu (vị chánh án miền biển) và cũng là của Phùng là: người đàn bà không phải là không mơ đến một hạnh phúc, không nghĩ đến nỗi khổ cực, tủi nhục của mình. Đằng sau cái sự lạc hậu mà người đàn bà tự biết là cả một sự thấu hiểu lẽ đời, cả một sự hi sinh đáng quý. “Nhưng tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự hâm trầm trong việc hiểu thấu cái lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rét ra bề ngoài”. Không phải chị không biết chuyện gia đình mình làm cho người ngoài cũng bất bình, nhưng liệu sự bất bình của mọi người có đem đến sự thay đổi nào cho cuộc sống của chị? Cái lão đàn ông tàn bạo đó, chị vẫn cần sao, vì cuộc sống của những đứa con, vì chiếc thuyền trên biển không thế để bàn tay một người đàn bà chèo lái. Cái nhìn của chị gắn bó với thực tế: sự lo lắng cho số phận những đứa con, cho cuộc sống lênh đênh trên thuyền.
Như vậy, sau chiến tranh, trở về với đời sống cá nhân, với thực tế đời thường của cuộc sống con người, Nguyễn Minh Châu đã khám phá ra những bão tố trong cuộc sống gia đình. Nhưng sự giải quyết mâu thuẫn của cuộc sống thực tại (qua gia đình người dân chài) không hề dễ dàng. Không chỉ đơn giản là khuyên người đàn bà li hôn, không phải cứ gọi lão chồng lên tòa để giáo dục là xong Cái xấu, cái ác trong con người không phải cứ không thích là có thể loại bó đi được. Như lão Khùng trong Phiên chợ Giát đã nghĩ: cứ bán con bò đi là bỏ được cái phần u tối của mình. Nhưng làm sao có thể được. Có vấn đề thuộc về cá nhân (lão chồng) nhưng cũng có vấn đề thuộc về cái chung, chuyện miếng cơm manh áo, việc làm cho người lao dộng. Thực tế không thuận chiều như người ta vẫn nghĩ, bởi con người tồn tại trong những mối quan hệ đa chiều, hết sức phức tạp. Nguyễn Minh Châu đã thu nhỏ ống kính của mình trong phạm vi cuộc sống gia đình – một nội diện hẹp hơn nhưng lại mở ra những điều không kém phần lớn lao, sâu sắc và cả nhức nhối nữa. Trong bức tranh nhỏ ấy chứa đựng cả một vấn đề xã hội, vấn đề nhân sinh.
Điều thống nhất trong hành trình sáng tạo của Nguyền Minh Châu luôn vẫn là “nỗi lo âu sao mà lớn lao và đầy khắc khoải về con người” về cuộc sống. Đây cũng là lí do mà Nguyễn Minh Châu một đời cầm bút với hi vọng. “Văn học sinh ra đời để gìn giữ trong từng con người – một cái gì hết sức mong manh và luôn luôn run rẩy… một cái gì đó thật là như vậy, nhưng thiếu nó trong con người thì y rằng con người ấy không thể sống giữa quần thể loài người được, và trở thành một tại họa cho loài người (Nhật kí – Nguyễn Minh Châu).
Cái mầm ác trong con người không phải bây giờ mới mọc ra, có ai đó đã nói rằng chất độc nằm ngay trong sự sống. Lão chồng là một nhân vật vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính người thân mình. Phải làm sao để nâng cao cái phần thiện, phần người trong những kẻ thô bạo ấy.
Nhà văn trong hàng loạt tác phẩm viết sau năm 1980 đã đối chứng với rất nhiều quan niệm bảo thủ, lệch lạc về cuộc đời con người; về văn chương, nghệ thuật đã từng có thời thống trị trong ý thức xã hội, trong văn chương. Sự thật nghiệt ngã được mô tả trong Chiếc thuyền ngoài xa đã xua tan làn khói lãng mạn phủ lên hình ánh từ lâu trở nên quen thuộc về cuộc sống ngư phủ dưới cánh buồm mời ảo, ban mai lên trên không gian rộng lớn của biển cả. “Cùng với Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu còn hàng loạt tác phẩm chứa đựng ý nghĩa rộng lớn sâu xa, nó khiến ta giật mình nếu quen nghĩ rằng cuộc đời đã hết đau thương, nó khơi gợi người cầm bút nên nhìn kĩ vào những gì sau vẻ đẹp bề ngoài để nhớ tới trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống, trước con người.
Tư duy nghệ thuật dù đổi mới đến đâu thì cũng không thể vượt qua những quy luật của chân, thiện, mĩ, quy luật nhân bản. Nhà văn chân chính có sứ mệnh khởi nguồn cho dòng sông văn học đổ ra đại dương nhân bản mênh mông” (Lã Nguvên).
Trước sau, Nguyễn Minh Châu vẫn là người đi săn tìm cái đẹp, tìm cái hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người. Đó phải chăng là ý nghĩa của những biểu tượng như “mảnh trăng cuối rừng”, “chiếc thuyền ngoài xa”? Có sự đổi thay trong cách nhìn của nhà văn bởi thực tế và tâm thế sáng tạo của nhà văn đã khác trước, bởi cuộc sống hòa bình khác với cuộc sống chiến tranh.
Về nghệ thuật, điều làm nên thành công của tác phẩm như đã nói trên đó là sự sáng tạo tình huống để các nhân vật tự thể hiện, tình huống làm cho con người phải thay đổi cách nhìn, cách quan niệm của mình. Nó được Nguyễn Minh Châu đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu hơn nữa để phát hiện tính cách con người, sự thật cuộc đời (Đặng Hiển).
Tác phẩm vẫn là sự tiếp tục khám phá cuộc sống như trong Bức tranh, với cách nhìn đa diện và phức tạp. Ông đã nhìn cuộc sống đời thường với một mối quan tâm đậc biệt để chỉ ra những vấn đề bên trong của nó và làm cho người đọc cũng phái nhìn sự vật, cuộc sống, con người theo kiểu của mình, từ đó cùng suy nghĩ tìm ra cách giải quyết một cách thỏa đáng tóm lại là tìm đọc ra đáp số cho bài toán nghịch lí của cuộc đời.
Đọc văn Nguyễn Minh Châu, người đọc bao giờ cùng nhìn thấy “đôi mắt mở to, khắc khoải, bồn chồn, đầy nghiêm khắc” của nhà văn nhìn vào nội tâm và cả cuộc đời nhân vật. Viết văn, với Nguyễn Minh Châu, luôn là sự thực hiện khát vọng tác động đối với đời sống và con người, là đặt ra những vấn đề về mối quan hệ giữa văn học và đời sống.
Theo quan điểm của Nguyễn Văn Siêu một tác phẩm văn chương chân chính phải gắn bó chặt chẽ với đời sống con người, có khả năng nhân đạo hóa con người, làm cho “người gần người hơn”. Nguyễn Minh Châu là nhà văn luôn luôn trăn trở về cuộc sống nhân dân và thiên chức của người cầm bút. Chiếc thuyền ngoài xa là một sáng tác tiêu biểu của ông không chỉ bởi đề tài sáng tác mới mẻ mà còn bởi giá trị nhân đạo sâu sắc của nó.
Văn chương thời kì đổi mới giai đoạn sau năm 1975 tiếp nhận khá nhiều tác phẩm hay và những đề tài mới mẻ. Chiến tranh kết thúc, nhiều vấn đề nhân sinh đạo đức phải được nhìn nhận lại, văn chương cũng phải đổi mới đề tài sáng tác. Nếu trước năm 1975, ngòi bút Nguyễn Minh Châu thiên hướng sử thi, lãng mạn trong đề tài người lính thì sau năm 1975, ông lại chuyển hướng vào những vấn đề đời tư thế sự, khám phá vẻ đẹp con người đằng sau cuộc sống lấm láp, đời thường, trong hành trình mưu sinh vất vả. Chiếc thuyền ngoài xa tiêu biểu cho khuynh hướng sáng tác này của Nguyễn Minh Châu. Hiện thực cuộc sống người dân sau chiến tranh đã được phác họa rõ nét. Ẩn sâu trong đó là cả một tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu – nhà văn được tôn vinh là “người mở đường tinh anh và tài năng nhất” người đã khám phá con người trong tầng sâu lịch sử để tìm kiếm “những hạt ngọc” còn “ẩn giấu” đằng sau những dáng vẻ lấm láp đời thường kia.
Trước hết, giá trị nhân đạo của truyện được thể hiện ở niềm xót thương, cảm thông của nhà văn với số phận con người dập dềnh, lênh đênh trên đau thương của đại dương của cuộc sống, cuộc sống lam lũ vất vả của gia đình thuyền chài. Chiếc thuyền là không gian sinh hoạt của đôi vợ chồng và một đàn con thơ. Ước mơ lớn nhất của người vợ là có một chiếc thuyền rộng hơn và được nhìn thấy đàn con được ăn no. Trong lúc hoàn cảnh túng quẫn, người chồng thay đổi tâm tính trở nên tàn bạo, vũ phu. Người vợ vì thương con, bất lực nên đã cam chịu đòn chồng và còn xin lên bờ để đánh. Người đàn bà làng chài trong truyện chính là hiện thân cho những gì là đau khổ, bất hạnh. Chị chính là hiện thân cho biết bao số phận của những người phụ nữ miền biển lênh đênh, nhọc nhằn luôn khao khát những hạnh phúc đời thường mà ngoài tầm tay với. Chị sống lam lũ, khó nhọc cùng gia đình trên chiếc thuyền chật hẹp lại thường xuyên phải chịu đòn chồng, không phải dăm bữa nửa tháng mà là “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.
Nguyễn Minh Châu đã dùng những chi tiết điển hình để phác họa chân dung người đàn bà: chạc tuổi 40, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi vì thức đêm kéo lưới, chiếc áo bạc phếch, nửa thân dưới ướt sũng… Chị mang những nét điển hình của người phụ nữ vùng biển lam lũ, khổ cực. Trong hoàn cảnh đói nghèo khi chưa có những giải pháp thiết thực để giải cứu cuộc đời chị thì cảnh chịu đòn chồng là cách duy nhất chị có thể làm để đến khi được luật pháp và cả thiện chí giúp đỡ, chị vẫn nhất định không chịu từ bỏ lão chồng vũ phu. Cuộc sống của chị chứa đựng nhiều đau khổ mà người đọc chứng kiến không khỏi xót xa. Lão chồng trong truyện cũng là hiện thân cho những kiếp người nghèo khổ. Trong con mắt của người đàn bà, lão là nạn nhân của nghèo đói, chỉ vì khó khăn, túng quẫn mà thay đổi tính nết. Cái độc dữ của hắn đã in hằn trên dáng hình thô kệch: chân đi hình chữ bát, đôi mắt nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch của người đàn bà… và cả những hành động lão “dành” cho người vợ đáng thương trong những trận đòn: “lão rút trong người ra chiếc thắt lưng da của lính ngụy ngày xưa, vụt tới tấp vào người đàn bà”… Câu nói cửa miệng của lão với người đàn bà: “Cứ ngồi nguyên đấy, động đậy tao giết cả mày đi bây giờ…Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ…” đã cho thấy bản tính vũ phu của lão chồng. Nhưng ngẫm kĩ, ta thấy hắn đáng thương hơn đáng trách vì theo người đàn bà ấy kể: “lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi…” ta thấy được rằng lão chồng cũng chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh. Cuộc sống có nhiều mảnh đời bất hạnh, có nhiều góc khuất mà người đọc phải suy ngẫm để rồi ngậm ngùi, cảm thương, xa xót…
Giá trị nhân đạo của truyện ngắn không chỉ được thể hiện ở lòng xót thương, cảm thông sâu kín của nhà văn mà còn ở chỗ Nguyễn Minh Châu đã kịch liệt lên án nạn bạo lực gia đình đã gây ra bao nhiêu đau khổ mà nạn nhân chính là phụ nữ và những tâm hồn trẻ thơ. Thói vũ phu của người chồng cũng do hoàn cảnh xô đẩy. Thế nhưng chứng kiến cảnh mẹ mình bị cha đánh đập, thằng Phác đã có dấu hiệu của một đứa trể thiếu vắng tình yêu thương. Nó thương mẹ nó và căm giận cha nó. Nó đã từng tuyên bố “Chừng nào nó còn ở trên biển thì mẹ nó không bị đánh”. Nó giống bố nó ở tính nết cục cằn, thô lỗ. Bởi vậy, nó nhất quyết chống lại hành động của cha. Chứng kiến mẹ bị đánh, nó xông ra ngăn cản để rồi nhận lấy hai cái tát của cha làm nó ngã dúi dụi xuống cát. Ba hôm sau nó lại định dùng dao găm chống lại người cha và cứu lấy người mẹ đáng thương của nó. Tâm hồn thằng bé Phác đã trở nên bị vấy bẩn bởi phải chứng kiến cảnh tượng không đáng có. Tâm hồn Phác sẽ không thể lành lặn. Tuổi thơ của em đang bị chà đạp bởi cái xấu, cái ác.
Văn chương thời kì đổi mới giai đoạn sau năm 1975 tiếp nhận khá nhiều tác phẩm hay và những đề tài mới mẻ. Chiến tranh kết thúc, nhiều vấn đề nhân sinh đạo đức phải được nhìn nhận lại, văn chương cũng phải đổi mới đề tài sáng tác. Nếu trước năm 1975, ngòi bút Nguyễn Minh Châu thiên hướng sử thi, lãng mạn trong đề tài người lính thì sau năm 1975, ông lại chuyển hướng vào những vấn đề đời tư thế sự, khám phá vẻ đẹp con người đằng sau cuộc sống lấm láp, đời thường, trong hành trình mưu sinh vất vả. Chiếc thuyền ngoài xa tiêu biểu cho khuynh hướng sáng tác này của Nguyễn Minh Châu. Hiện thực cuộc sống người dân sau chiến tranh đã được phác họa rõ nét. Ẩn sâu trong đó là cả một tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu – nhà văn được tôn vinh là “người mở đường tinh anh và tài năng nhất” người đã khám phá con người trong tầng sâu lịch sử để tìm kiếm “những hạt ngọc” còn “ẩn giấu” đằng sau những dáng vẻ lấm láp đời thường kia.
Trước hết, giá trị nhân đạo của truyện được thể hiện ở niềm xót thương, cảm thông của nhà văn với số phận con người dập dềnh, lênh đênh trên đau thương của đại dương của cuộc sống, cuộc sống lam lũ vất vả của gia đình thuyền chài. Chiếc thuyền là không gian sinh hoạt của đôi vợ chồng và một đàn con thơ. Ước mơ lớn nhất của người vợ là có một chiếc thuyền rộng hơn và được nhìn thấy đàn con được ăn no. Trong lúc hoàn cảnh túng quẫn, người chồng thay đổi tâm tính trở nên tàn bạo, vũ phu. Người vợ vì thương con, bất lực nên đã cam chịu đòn chồng và còn xin lên bờ để đánh. Người đàn bà làng chài trong truyện chính là hiện thân cho những gì là đau khổ, bất hạnh. Chị chính là hiện thân cho biết bao số phận của những người phụ nữ miền biển lênh đênh, nhọc nhằn luôn khao khát những hạnh phúc đời thường mà ngoài tầm tay với. Chị sống lam lũ, khó nhọc cùng gia đình trên chiếc thuyền chật hẹp lại thường xuyên phải chịu đòn chồng, không phải dăm bữa nửa tháng mà là “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.
Nguyễn Minh Châu đã dùng những chi tiết điển hình để phác họa chân dung người đàn bà: chạc tuổi 40, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi vì thức đêm kéo lưới, chiếc áo bạc phếch, nửa thân dưới ướt sũng… Chị mang những nét điển hình của người phụ nữ vùng biển lam lũ, khổ cực. Trong hoàn cảnh đói nghèo khi chưa có những giải pháp thiết thực để giải cứu cuộc đời chị thì cảnh chịu đòn chồng là cách duy nhất chị có thể làm để đến khi được luật pháp và cả thiện chí giúp đỡ, chị vẫn nhất định không chịu từ bỏ lão chồng vũ phu. Cuộc sống của chị chứa đựng nhiều đau khổ mà người đọc chứng kiến không khỏi xót xa. Lão chồng trong truyện cũng là hiện thân cho những kiếp người nghèo khổ. Trong con mắt của người đàn bà, lão là nạn nhân của nghèo đói, chỉ vì khó khăn, túng quẫn mà thay đổi tính nết. Cái độc dữ của hắn đã in hằn trên dáng hình thô kệch: chân đi hình chữ bát, đôi mắt nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch của người đàn bà… và cả những hành động lão “dành” cho người vợ đáng thương trong những trận đòn: “lão rút trong người ra chiếc thắt lưng da của lính ngụy ngày xưa, vụt tới tấp vào người đàn bà”… Câu nói cửa miệng của lão với người đàn bà: “Cứ ngồi nguyên đấy, động đậy tao giết cả mày đi bây giờ…Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ…” đã cho thấy bản tính vũ phu của lão chồng. Nhưng ngẫm kĩ, ta thấy hắn đáng thương hơn đáng trách vì theo người đàn bà ấy kể: “lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi…” ta thấy được rằng lão chồng cũng chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh. Cuộc sống có nhiều mảnh đời bất hạnh, có nhiều góc khuất mà người đọc phải suy ngẫm để rồi ngậm ngùi, cảm thương, xa xót…
Giá trị nhân đạo của truyện ngắn không chỉ được thể hiện ở lòng xót thương, cảm thông sâu kín của nhà văn mà còn ở chỗ Nguyễn Minh Châu đã kịch liệt lên án nạn bạo lực gia đình đã gây ra bao nhiêu đau khổ mà nạn nhân chính là phụ nữ và những tâm hồn trẻ thơ. Thói vũ phu của người chồng cũng do hoàn cảnh xô đẩy. Thế nhưng chứng kiến cảnh mẹ mình bị cha đánh đập, thằng Phác đã có dấu hiệu của một đứa trể thiếu vắng tình yêu thương. Nó thương mẹ nó và căm giận cha nó. Nó đã từng tuyên bố “Chừng nào nó còn ở trên biển thì mẹ nó không bị đánh”. Nó giống bố nó ở tính nết cục cằn, thô lỗ. Bởi vậy, nó nhất quyết chống lại hành động của cha. Chứng kiến mẹ bị đánh, nó xông ra ngăn cản để rồi nhận lấy hai cái tát của cha làm nó ngã dúi dụi xuống cát. Ba hôm sau nó lại định dùng dao găm chống lại người cha và cứu lấy người mẹ đáng thương của nó. Tâm hồn thằng bé Phác đã trở nên bị vấy bẩn bởi phải chứng kiến cảnh tượng không đáng có. Tâm hồn Phác sẽ không thể lành lặn. Tuổi thơ của em đang bị chà đạp bởi cái xấu, cái ác.
Văn chương thời kì đổi mới giai đoạn sau năm 1975 tiếp nhận khá nhiều tác phẩm hay và những đề tài mới mẻ. Chiến tranh kết thúc, nhiều vấn đề nhân sinh đạo đức phải được nhìn nhận lại, văn chương cũng phải đổi mới đề tài sáng tác. Nếu trước năm 1975, ngòi bút Nguyễn Minh Châu thiên hướng sử thi, lãng mạn trong đề tài người lính thì sau năm 1975, ông lại chuyển hướng vào những vấn đề đời tư thế sự, khám phá vẻ đẹp con người đằng sau cuộc sống lấm láp, đời thường, trong hành trình mưu sinh vất vả. Chiếc thuyền ngoài xa tiêu biểu cho khuynh hướng sáng tác này của Nguyễn Minh Châu. Hiện thực cuộc sống người dân sau chiến tranh đã được phác họa rõ nét. Ẩn sâu trong đó là cả một tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu – nhà văn được tôn vinh là “người mở đường tinh anh và tài năng nhất” người đã khám phá con người trong tầng sâu lịch sử để tìm kiếm “những hạt ngọc” còn “ẩn giấu” đằng sau những dáng vẻ lấm láp đời thường kia.
Trước hết, giá trị nhân đạo của truyện được thể hiện ở niềm xót thương, cảm thông của nhà văn với số phận con người dập dềnh, lênh đênh trên đau thương của đại dương của cuộc sống, cuộc sống lam lũ vất vả của gia đình thuyền chài. Chiếc thuyền là không gian sinh hoạt của đôi vợ chồng và một đàn con thơ. Ước mơ lớn nhất của người vợ là có một chiếc thuyền rộng hơn và được nhìn thấy đàn con được ăn no. Trong lúc hoàn cảnh túng quẫn, người chồng thay đổi tâm tính trở nên tàn bạo, vũ phu. Người vợ vì thương con, bất lực nên đã cam chịu đòn chồng và còn xin lên bờ để đánh. Người đàn bà làng chài trong truyện chính là hiện thân cho những gì là đau khổ, bất hạnh. Chị chính là hiện thân cho biết bao số phận của những người phụ nữ miền biển lênh đênh, nhọc nhằn luôn khao khát những hạnh phúc đời thường mà ngoài tầm tay với. Chị sống lam lũ, khó nhọc cùng gia đình trên chiếc thuyền chật hẹp lại thường xuyên phải chịu đòn chồng, không phải dăm bữa nửa tháng mà là “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.
Nguyễn Minh Châu đã dùng những chi tiết điển hình để phác họa chân dung người đàn bà: chạc tuổi 40, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi vì thức đêm kéo lưới, chiếc áo bạc phếch, nửa thân dưới ướt sũng… Chị mang những nét điển hình của người phụ nữ vùng biển lam lũ, khổ cực. Trong hoàn cảnh đói nghèo khi chưa có những giải pháp thiết thực để giải cứu cuộc đời chị thì cảnh chịu đòn chồng là cách duy nhất chị có thể làm để đến khi được luật pháp và cả thiện chí giúp đỡ, chị vẫn nhất định không chịu từ bỏ lão chồng vũ phu. Cuộc sống của chị chứa đựng nhiều đau khổ mà người đọc chứng kiến không khỏi xót xa. Lão chồng trong truyện cũng là hiện thân cho những kiếp người nghèo khổ. Trong con mắt của người đàn bà, lão là nạn nhân của nghèo đói, chỉ vì khó khăn, túng quẫn mà thay đổi tính nết. Cái độc dữ của hắn đã in hằn trên dáng hình thô kệch: chân đi hình chữ bát, đôi mắt nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch của người đàn bà… và cả những hành động lão “dành” cho người vợ đáng thương trong những trận đòn: “lão rút trong người ra chiếc thắt lưng da của lính ngụy ngày xưa, vụt tới tấp vào người đàn bà”… Câu nói cửa miệng của lão với người đàn bà: “Cứ ngồi nguyên đấy, động đậy tao giết cả mày đi bây giờ…Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ…” đã cho thấy bản tính vũ phu của lão chồng. Nhưng ngẫm kĩ, ta thấy hắn đáng thương hơn đáng trách vì theo người đàn bà ấy kể: “lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi…” ta thấy được rằng lão chồng cũng chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh. Cuộc sống có nhiều mảnh đời bất hạnh, có nhiều góc khuất mà người đọc phải suy ngẫm để rồi ngậm ngùi, cảm thương, xa xót…
Giá trị nhân đạo của truyện ngắn không chỉ được thể hiện ở lòng xót thương, cảm thông sâu kín của nhà văn mà còn ở chỗ Nguyễn Minh Châu đã kịch liệt lên án nạn bạo lực gia đình đã gây ra bao nhiêu đau khổ mà nạn nhân chính là phụ nữ và những tâm hồn trẻ thơ. Thói vũ phu của người chồng cũng do hoàn cảnh xô đẩy. Thế nhưng chứng kiến cảnh mẹ mình bị cha đánh đập, thằng Phác đã có dấu hiệu của một đứa trể thiếu vắng tình yêu thương. Nó thương mẹ nó và căm giận cha nó. Nó đã từng tuyên bố “Chừng nào nó còn ở trên biển thì mẹ nó không bị đánh”. Nó giống bố nó ở tính nết cục cằn, thô lỗ. Bởi vậy, nó nhất quyết chống lại hành động của cha. Chứng kiến mẹ bị đánh, nó xông ra ngăn cản để rồi nhận lấy hai cái tát của cha làm nó ngã dúi dụi xuống cát. Ba hôm sau nó lại định dùng dao găm chống lại người cha và cứu lấy người mẹ đáng thương của nó. Tâm hồn thằng bé Phác đã trở nên bị vấy bẩn bởi phải chứng kiến cảnh tượng không đáng có. Tâm hồn Phác sẽ không thể lành lặn. Tuổi thơ của em đang bị chà đạp bởi cái xấu, cái ác.
Bên cạnh đó, Nguyễn Minh Châu còn phê phán lòng tốt hời hợt, cách hành động thiếu thiết thực của luật pháp vào đời sống con người. Dù Phùng và Đẩu có thiện chí giúp đỡ người đàn bà nhưng họ không hiểu thấu, hiểu sâu hoàn cảnh và bi kịch cuộc đời của người đàn bà kia. Từ đó, Nguyễn Minh Châu muốn phát biểu: luật pháp và lòng tốt là cần thiết nhưng luật pháp phải đi sâu vào cuộc sống con người, phải vì con người. Những người cầm cân nảy mực phải thấu hiểu cuộc sống nhân dân thì cuộc sống của những người dân vất vả kia mới có thể khấm khá hơn được.
Điều đặc biệt làm nên giá trị nhân đạo của Chiếc thuyền ngoài xa khiến cho tác phẩm có thể phát sáng mãi là ở chỗ nhà văn biết phát hiện, nâng niu, trân trọng vẻ đẹp tâm hồn con người đằng sau cuộc sống gian khổ, nghèo khó. Phẩm chất của người đàn bà hàng chài trong tác phẩm chính là vẻ đẹp khuất lấp, là điểm sáng rực rỡ của truyện ngắn mà Nguyễn Minh Châu gọi đó là “hạt ngọc còn ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Tình yêu thương con hết mực, sức chịu đựng tuyệt vời chính là những vẻ đẹp dễ thấy ở người đàn bà. Câu nói “đưa tôi lên bờ mà đánh” đã thể hiện được tình yêu thương đó. Người đàn bà không muốn con mình nhìn thấy cảnh bạo lực tàn ác. Tiếng gọi “Phác, con ơi!” cùng hành động ôm chầm lấy con đã chứng tỏ tình yêu thương vô bờ bến chị dành cho đứa con tội nghiệp. Rồi hành động “chắp tay vái lấy vái để” thể hiện được sự hối lỗi, ăn năn khi nỡ để con nhìn thấy mình bị đánh.
Điều dễ thấy ở người đàn bà chính là đức hi sinh, lòng vị tha, bao dung của một người vợ, người mẹ. Chị thấu hiểu lão chồng mình, thấu hiểu rằng lão chỉ là nạn nhân. Cách nhìn của chị về lão khác hẳn với Phùng, Đẩu và cả thằng Phác. Trong đau khổ chị vẫn chắt chiu những hạnh phúc đời thường, lấy đó làm điểm tựa để sống vững hơn. Người đàn bà thất học mà không tăm tối. Đằng sau cái vẻ lấm láp, lam lũ của người đàn bà chính là sự hiểu đời, hiểu người sâu sắc. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện đã cho thấy rõ điều đó. Từ thái độ rón rén, sợ sệt ban đầu, chị trở nên sắc sảo đưa ra những lí do chị không thể bỏ gã chồng vũ phu, độc ác. Chị cần hắn để chèo chống con thuyền trong phong ba bão táp, để cùng nhau nuôi đặng một sắp con. Lí lẽ của chị đưa ra thật sắc sảo, làm nên những bước ngoặt trong nhận thức của cả Phùng và Đẩu, buộc người nghệ sĩ và vị chánh án phải nhìn cuộc sống ở góc độ đa chiều: “có gì vỡ ra trong đầu của vị boa công phố biển”, còn Phùng thì nhận thấy “căn phòng lộng gió của Đẩu như bị hút hết không khí trở nên ngột ngạt”. Từ đó nhận ra người đàn bà ấy không cam chịu đau đớn về thể xác và tinh thần một cách ngờ nghệch mà chị rất hiểu đời, hiểu người sâu sắc hơn hai vị trí thức. Người đàn bà là hiện thân cho tình yêu thương, đức hi sinh tuyệt vời … mà Nguyễn Minh Châu hết sức trân trọng.