Anh (chị) bình giảng khổ thơ sau trong bài Đất Nước của Nguyễn Đình Thi
Contents
Bình giảng khổ thơ sau trong bài Đất Nước của Nguyễn Đình Thi.
Ôi những cảnh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
(Trích Đất Nước – Nguyễn Đình Thi, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2016, trang 124)
BÀI LÀM THAM KHẢO
Cảm hứng về đất nước luôn là cảm hứng của biết bao nhiêu thế hệ nhà thơ. Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng nhất mà mỗi nhà thơ đều dùng những từ ngữ hay nhất để nói về. Góp phần làm giàu thêm đề tài này Nguyễn Đình Thi đã mang đến cho nền văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp bài thơ mang tựa đề Đất nước. “Đất nước’’ như một phức điệu đa thanh nói về cảm xúc mùa thu quê hương xưa và nay. Là tiếng nói say mê về cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ, là niềm tự hào về truyền thống bất khuất của dân tộc anh hùng. Nó là tiếng nói xót xa, căm giận quân xâm lược đang giày xéo đất nước thân yêu.
Trong cái tượng đài đất nước ấy, có thể lấy ra những gương mặt đất nước giống như những hình khối, mảng màu tạo nên vẻ đẹp tổng hợp của nó. Có hình ảnh đất nước đẹp giàu (Những cánh đồng thơm mát… Những dòng sông đỏ nặng phù sa), có tiếng vọng bất khuất từ ngày xưa (Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất — Những buổi ngày xưa vọng nói về), có cả hào quang chiến thắng rực rỡ (Nước Việt Nam từ máu lửa – Rũ bùn đứng dậy sáng lóa). Nhưng nhiều nhất là hình ảnh đất nước trong chiến tranh. Phải chăng đây là hình khối chủ đạo, là gam màu chính của tượng đài Đất nước của Nguyễn Đình Thi? Trong những hình ảnh ấy, người đọc hôm nay vẫn còn lưu luyến mãi những câu thơ tài hoa cô đúc kết tinh của thi sĩ:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Bài thơ Đất nước được Nguyễn Đình Thi sáng tác trong tám năm (1948 – 1955) gần như suốt trong chiều dài của cuộc kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh “đất nước” được nhà thơ ấp ủ đến độ “chín” để dựng lên một tượng đài đất nước tổng họp – khái quát: một đất nước hiền hòa – bất khuất, một đất nước tình nghĩa – anh hùng, một đất nước trưởng thành – tỏa sáng!
Cái tài ở đây trước hết là sự cô đúc. Nó là kết quả của một cảm hứng thơ đã “chín”. Cảm hứng có “chín” thì ý tưởng mới thành hình tượng và hình tượng mới hàm chứa nhiều ý nghĩa. Chỉ bốn câu thơ mà hình ảnh đất nước trong chiến tranh đã hiện lên thật đậm nét và đầy ấn tượng. Hai câu trên là hình ảnh đất nước đau thương do chiến tranh hủy diệt của quân thù, hai câu dưới là gương mặt đất nước anh hùng – tình nghĩa trong cuộc kháng chiên chông ngoại xâm của dân tộc. Nhưng cô đúc mà lại tài hoa trong hình ảnh, ngôn ngữ và cách nói của Nguyễn Đình Thi khiến cho khổ thơ có sức sống lâu bền trong lòng người đọc.
Thơ kháng chiến thường nói đến hình ảnh đất nước đau thương trong chiến tranh. Nhưng mồi nhà thơ lại có cách nói riêng tùy theo cảm hứng thơ và hoàn cảnh sáng tác. Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, đó là:
Quê hương ta, những ngày khùng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lừa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang…
Hình ảnh thơ thiên về cụ thể là do cảm hứng bộc phát trào lèn mạnh mẽ trong một đêm thức trắng để viết nên bài thơ khi ông nghe tin giặc chiếm đóng và tàn phá quê hương thân yêu của mình. Trong câu thơ của Nguyễn Đình Thi, ta chỉ thấy có những hình ảnh khái quát như những biểu tượng để nói về đất nước đau thương. Nhà thơ — người chiến sĩ như đang nắm chắc tay súng lắng hồn núi sông ngàn năm, lắng nghe những ầm vang của lịch sử, giống nòi rì rầm trong tiếng đẩt từ ngàn xưa vọng nói về, những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa… bất tử! Từ quá khứ nghìn xưa trở về hiện tại, câu thơ vút lên nghẹn ngào, đau đớn:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều.
Cảnh tượng đau thương mà nhà thơ nói đến là mùa thu 1948, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta đang diễn ra vô cùng ác liệt! Nhiều đô thị, nhiều vùng nông thôn rộng lớn của đất nước ta đang bị giặc Pháp chiếm đóng và giày xéo Đường làng bao xương máu tơi bời – Vườn không nhà trống tàn hoang (Làng tôi – Văn Cao). Xưa kia thuở thanh bình, đất nước ỉèCnhững cánh đồng thơm mát…, xanh xanh bãi mía bờ dâu, ngô khoai biêng biếc, thì kể từ khi súng giặc đất rền, đã trở nên tang thương, điêu tàn với những cánh đồng quê chảy máu. Câu trên là nỗi đau vật chất, câu dưới là nỗi đau tinh thần. Đất chảy máu, trời bị đâm nát. Nỗi đau càng toàn diện thì tội ác quân giặc càng chồng chất, chiến tranh hủy diệt càng tàn bạo. Đất lam gì có máu nhưng ở đây những cánh đồng quê đã chày máu. Tại sao tác giả không viết cánh đồng quê đẫm máu, ngập máu, loang máu, đầy máu? Viết như thế chỉ nói được máu người bị giặc giết loang trên đồng, ngập trên đồng. Nhưng viết “chảy máu” thì khái quát hơn, vừa nói được cánh đồng đẫm máu người bị giết, và sâu xa hơn, còn nói được chuyện cũng bị giặc giết, cánh đồng này cũng bị giặc tàn sát. Lũ giặc giết người đã ác, nhưng chúng còn giêt cả những cánh đồng, chúng còn tàn sát cả thiên nhiên, đất đai, cây cỏ… Vì thế, cách viết cùa nhà thơ Nguyễn Đình Thi có sử dụng nghệ thuật nhân hóa; sức gợi, sức khái quát của câu thơ lớn hơn nhiều. Những cánh đồng quê yên bình bao đời chỉ xanh màu khoai lúa, giờ đây đã chảy máu vì bom đạn quân thù trút xuống. Gần hai thế kỉ về trước, trong bài thơ Chạy giặc, Nguyễn Đình Chiểu đã căm giận lên án quân xâm lược:
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ đàn chim dáo dác bay
Bến Nghé cùa tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Nhờ biện pháp nhân hóa mà sức liên tưởng của hình ảnh còn mở rộng, đi xa. Không chỉ cánh đồng mà cơ thể Tổ quốc cũng đang chảy máu, con người và cuộc sống cũng đang chảy máu. Những cánh đồng quặn đau và cả đất nước cũng quặn đau. Tất cả là do chiến tranh hủy diệt, do tội ác của quân thù. Hình ảnh thơ mới lạ, cô đúc, sáng tạo mà lại gần gũi tự nhiên. Bản thân nó có sức gợi cảm mạnh và sức khái quát cao. Câu thơ mở ra một trời liên tưởng và nói với chúng ta nhiều điều sâu sắc. Nhà thơ đã dẫn hồn người đọc về với cuộc sống và cảm nhận chất hiện thực của đất nước một thời khói lửa, mở rộng cho ta một trường liên tưởng về không gian nghệ thuật để mọi người cùng suy ngẫm về dòng chảy lịch sử và hành trình bi tráng của dân tộc. Và đó cũng là cái giá cùa độc lập tự do để ta nhớ và tự hào!
Dòng cảm xúc của tác giả đang trôi chảy đưa người đọc đến với câu thơ: Dây thép gai đâm nát trời chiều, chỉ một câu thôi nhưng nó lại mang dáng dấp một câu thơ hiện đại phương Tây. Hiện đại trong hình ảnh và trong cách nói. “Dây thép gai” là hình ảnh của chiến tranh hiện đại tàn khốc, cho đến lúc bấy giờ (năm 1955 khi bài thơ ra đời) còn chưa được dùng nhiều lắm trong thơ. Nhưng “dây thép gai” mà lại “đâm nát trời chiều” thì đó là một cách nói mới mẻ của Nguyễn Đình Thi. Một vật cụ thể, nhọn sẳc (dây thép gai) lại “đâm nát” một cái gì dường như là vô hình, trừu tượng – một cảnh trời chiều êm ả, thơ mộng? Bây giờ ta thử hỏi vì sao nhà thơ lại chọn trời chiều? Vì sao nhà thơ không viết là (Dây thép gai đâm nát bình minh? Dây thép gai đâm nát trời trưa?). Đấy là thời gian hành quân của người chiến sĩ, tiếp sau đó là câu thơ Những đêm dài hành quân nung nấu. Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu bởi vậy thời gian chuyển từ chiều sang đêm gần gũi. Nhưng sâu xa hơn, có lẽ bình minh lên ánh hồng chân mây hay trời trưa trong trẻo sẽ không thích hợp với không khí cánh đồng chảy máu. Trời chiều thường có ráng đỏ, thường tím tái; khi dây thép gai đâm nát, gợi một không gian ứa máu. Trong thi phẩm Nhớ rừng Thế Lữ cũng chọn thời gian và không gian chiều để diễn tả: Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng. Ta đợi chết mành mặt trời gay gắt. Cánh đồng quê chảy máu. Trời chiều bị dây thép gai đâm nát cũng ứa máu. Sự diễn tả như thế tạo ấn tượng mạnh mẽ về tội ác của kẻ thù, về những đau thương và mất mát của quê hương trong chiến tranh. Đây là một chứng cứ về sự tài hoa của ngòi bút Nguyễn Đình Thi trong lĩnh vực thơ ca. Và cảnh “trời chiều” ở đây có phải là biểu trưng cho cuộc sống tình cảm, cho hạnh phúc của con người? Trong sự đối lập đó “dây thép gai” lại càng tàn bạo, man rợ, tội ác quân thù càng dày cao, chồng chất. Câu thơ đã nói lên thấm thìa cái nỗi đau tinh thần của đất nước trong chiến tranh và tố cáo đến tận chiều sâu tội ác quân giặc cướp nước: hủy diệt đến cả đời sống tình cảm của con người. Trong bài thơ Đất nước, ta cũng gặp những cách nói tương tự như thể:
Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà.
Đất nước, trong cốt lõi của nó, chính là nhân dân, và ở đây, được biểu thị bằng hình ảnh người lính đánh giặc:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Câu một nói về những cánh đồng quê chảy máu, câu ba tứ thơ chỉ rõ Những đêm dài hành quân nung nấu, từ không gian đau thương mở ra thời gian căm giận, không chỉ một đêm, năm mười đêm mà là “những đêm dài”… cấu trúc song hành, điệp lại hai lần chữ “những”, chữ “nấu” vần với chữ “máu” (vần chân) đã tạo nên giai điệu, nhạc điệu trầm hùng đang nung nấu tâm hồn người chiến sĩ xung kích trên đường hành quân ra trận. “Nung nấu” vì căm thù dữ dội. Lòng súng nóng bỏng, lưỡi lê nhọn hoắt căm thù! Mối thù đối với giặc Pháp cướp nước nung nấu, ngùn ngụt bốc lửa, sôi sục trong lòng, không chỉ trong một thời gian hữu hạn mà kéo dài trong thời gian vô hạn Những đêm dài hành quân nung nấu. Hai chữ “nung nâu” biêu hiện sâu sắc tình yêu nước của con người Ồm đất nước những người áo vải — Đã đứng lên thành những anh hùng!. Câu trên là anh hùng, câu dưới là tình nghĩa, và hai phẩm chất đó kết hợp một cách hài hòa tự nhiên như nó vốn có trong cuộc đời người lính – nó là bản chất của anh bộ đội Cụ Hồ, là đặc trưng tính cách của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Câu thơ thật như cuộc đời, như tâm trạng người lính nhưng lại rất tài hoa nghệ sĩ. Một chữ “dài” sau chữ “đêm”, một chữ “nung nấu” sau chữ “hành quân” vừa cho ta thấy được cái gian khổ, lại cho ta cảm được cái ý chí tôi luyện, cái ngọn lửa căm thù trong lòng người lính – nó là sức mạnh tinh thần để chiến thắng quân thù.
Càng nung nấu quân xâm lược bao nhiêu thì càng yêu quê hương đất nước bấy nhiêu. Người lính ra trận nung nấu, sôi sục căm thù giặc khi nhìn thấy đất nước tang tóc, điêu tàn những cánh đồng qué chảy máu…, nhìn thấy những bóng thù hắc ám, những đồn giặc mọc lên với bao dây thép gai đâm nát trời chiều. Câu thơ tiếp theo là một nét vẽ, nét khắc chiều sâu tâm hồn người chiến sĩ ra trận; nhiều khám phá và sáng tạo. Đồng thời câu thơ cũng mang nét riêng rất Nguyễn Đình Thi:
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
“Nung nấu’’ căm thù và “bồn chồn nhớ” là hai nét biểu hiện của một tâm trạng, làm nên sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của anh Vệ quốc quân thời kháng chiến chín năm đánh Pháp. Anh ra trận với sức mạnh căm thù giặc, với tình yêu quê hương đất nước, với bao nỗi nhớ. Nhớ luống cày mái rạ, nhớ bãi mía nương dâu, nhớ giếng nước gốc đa, nhớ “người tình chung”. Khi nhà thơ Chính Hữu chỉ viết về người lính nông dân Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Quang Dũng lãng mạn hơn trong người lính Tây Tiến Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. Nhưng “nhớ mắt người yêu” thì quả là mới lạ và cũng thật tinh tế. “Mắt người yêu” cũng là một hình ảnh hoán dụ rất đắt diễn tả hình bóng quê hương, vẻ đẹp duyên dáng “người tình chung” sau lũy tre làng mà anh nhớ lắm:
Vầng trán em mang trời quê hương
Mắt em như giếng nước thôn làng
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em đã bao ngày em nhớ thương?
(Mắt người Sơn Tây-Quang Dũng)
Nhớ mắt người yêu với bao kỉ niệm đẹp một thời trai trẻ. Khi anh Xa em năm nhớ – gần em mười thương. Chàng trai cày ngày xưa nhở quê nhà là nhớ hương vị đậm đà Bát canh rau muống, quả cà giòn tan. là Nhớ ai tát nước bén đường hôm nao. Anh bộ đội Cụ Hồ giã từ nơi chôn nhau cắt rốn, nơi nước mặn đồng chua, nơi đất cày lên sỏi đá, có người nhớ thầm: Bầm ra ruộng cấy bầm run – Chân lội dưới bùn tay cấy mạ non. Có anh lính nhớ người vợ trẻ – mòn chân bên cối gạo canh khuya. Chàng lính trẻ hào hoa trong đoàn binh Tây Tiến thì lại Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. Có trăm nghìn nỗi nhớ quê, nhớ nhà, nhớ người thân thương: Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét – Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng (Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên),… Trong thơ Nguyễn Đình Thi hay nói đến mắt người yêu và ở đây, người lính của ông cũng bồn chồn nhớ mat người yêu. Có phải vì mắt là cửa sổ tâm hồn, là nơi giao lưu tình cảm? Ca dao xưa cũng nói: Mắt thương nhớ ai – Mắt ngủ không yên. Và có phải bằng hình ảnh này, nhà thơ đã đem đến cho ta một vẻ đẹp mới đáng yêu của người lính?
Trở lại câu thơ Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu, hai chữ “bồn chồn” nghĩa là nóng ruột, không yên tâm (Từ điên tiếng Việt); diễn tả nỗi nhớ xôn xao, rung động, dâng lên như những đựt sóng vỗ mãi trong lòng. Đã có nỗi nhớ bổi hổi bồi hồi. Đã có sự vấn vương không yên một bề. Đã có tâm tình khao khát Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai… Câu thơ Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu là một nét vẽ rất đẹp thể hiện bút pháp tài hoa của Nguyễn Đình Thi. “Nhớ” là cảm hứng nhiều màu sắc và dáng vẻ đã làm nên những câu thơ hay, những vần thơ đẹp của Nguyễn Đình Thi trong tập thơ “Người chiến sĩ”. Khắc họa hình ảnh người lính để nói lên gương mặt đất nước, đó là một cách nói nghệ thuật, và dù có những chi tiết cụ thể, về bản chất, hình ảnh này vẫn mang tính khái quát để nói lên phẩm chất anh hùng – tình nghĩa của dân tộc Việt Nam. Cũng giống như hình ảnh “gốc lúa bờ tre” mang ý nghĩa biểu trưng trong bài thơ:
Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần
Anh nhớ em mỗi bước dường anh bước
Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn…
(Nhớ)
Trong cái chung nhớ nước, nhớ nguồn thiêng ông cha (Hữu Loan), lại có cái riêng Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. Có nỗi hờn “nung nấu”, có nỗi nhớ “bồn chồn” nên mới có sức mạnh chiến đấu và niềm tin thắng trận:
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trây hội non sóng
Cười mê ánh súng muôn lòng xuân xanh
(Bên kia sông Đuống- Hoàng cầm)
Tình cảm là cái gốc của thơ ca, là ngọn nguồn sáng tạo của thơ ca. Thơ chỉ đẹp khi thơ ca hút màu mỡ, phù sa trong lòng đất – hiện thực cuộc sống mà nảy mầm xanh tươi, đơm hoa kết trái dâng hương thơm, vị ngọt cho đời. Đoạn thơ của Nguyễn Đình Thi như một bông hoa đẹp trong cành hoa đẹp đã mang hơi thờ nóng hổi của thời đại, mang tình yêu mãnh liệt của đất nước và con người Việt Nam trong ba ngàn ngày khói lửa.
Bốn câu thơ mà đầy ắp thông tin, hàm chứa biết bao ý nghĩa, dồn nén nhiều năng lượng, đã khắc họa đậm nét và sâu sắc gương mặt đất nước trong chiến tranh. Đó là một khổ thơ hay trong bài thơ Đất Nước nổi tiếng của Nguyễn Đình Thi mà nguyên nhân sâu xa là cảm hứng thơ đã “chín” để có thể tạo ra những hình ảnh thơ cô đúc, mới lạ và những cách nói sáng tạo trong thơ. Đọc đoạn thơ trên, ta cảm nhận được phần nào vẻ đẹp phong cách nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi, một hồn thơ giàu cá tính sáng tạo. Hiện thực chiến tranh: đất nước điêu tàn, dân tộc đau thương trong bom đạn quân thù đã được diễn tả một cách tuyệt vời qua những vần thơ hàm súc, biểu cảm và giàu hình tượng.
Đọc Đất Nước cùa Nguyễn Đình Thi, tâm hồn ta được bồi đắp bao tình cảm đẹp trở nên trong sáng và phong phú, để ta yêu, để ta nhớ, ta sống lại và tự hào về những năm tháng hào hùng và oanh liệt với ngọn lửa Điện Biên thần kì của đất nước và dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh.