Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu. Qua đoạn thơ, anh (chị) suy nghĩ như thế nào về tình yêu quê hương đất nước
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu. Qua đoạn thơ, anh (chị) suy nghĩ như thế nào về tình yêu quê hương đất nước?
Ta về, mình có nhớ ta Ta về,
ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc. Ôi! Ta vui biết bao nhiêu khi được nghe những câu thơ viết về mảnh đất miền Tây của Tổ quốc, mảnh đất ấy Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn (Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên). Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được.
Mỗi lần nhắc đến Việt Bắc là gợi lại trong ta nhớ đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất Trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình – nơi đã in sâu bao kỉ niệm của một thời kì cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa, lòng ta không khỏi xuyến xao bồi hồi. Và cứ thế sợi nhớ, sợi thương đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi “Ta – Mình” của đôi lứa yêu nhau. Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Ờ đó, bên cạnh những bức tranh hùng tráng, đậm chất sử thi thì vần còn bức tranh về cuộc sống đời thường gần gũi, thân thiết được bao bọc bởi thiên nhiên vô cùng tươi đẹp:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đô tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trang rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hải măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Việt Bắc là một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu. Lời thơ như khúc hát ân tình tha thiết về Việt Bắc, quê hương của cách mạng Việt Nam. Việt Bắc là một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10 – 1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã Thù đô lồng lộng gió ngàn về với Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình. Cuộc chia tay đầy lưu luyến nhớ thương giữa những người cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc được nhà thơ Tố Hữu phản ánh trong bài thơ Việt Bấc như cuộc chia tay cùa một đôi bạn tâm tình. Ta và mình đã sống với nhau mười lăm năm keo son gắn bó, giờ đây phải chia tay để làm nhiệm vụ mới. Bài thơ được kết cấu theo lối hát đối đáp dân tộc. Đoạn trích trên là lời của người cán bộ kháng chiến nói lên nỗi yêu thương nhớ nhung của mình đối với Việt Bắc, với thiên nhiên tươi đẹp và với con người Việt Bắc tình nghĩa.
Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ mình có nhớ ta, câu thơ thứ hai là tự trả lời, điệp từ “ta” lặp lại bổn lần cùng với âm “a” là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn. Hai câu thơ sử dụng từ “mình” và “ta” quen thuộc trong ca dao, “ta” chỉ người ra đi và “mình” chỉ người ở lại. Cụm từ “ta về”, “nhớ” được nhắc đi nhắc lại tới hai lần, trong câu thơ đầu tiên là người ra đi hỏi người ờ lại, còn trong câu thơ thứ hai là để bày tỏ tâm trạng của người ra đi: nỗi nhớ “hoa cùng người”. “Hoa” tượng trưng cho thiên nhiên Việt Bắc, “người” là để chỉ nhân dân Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Nỗi nhớ hoa và người đan xen hòa trộn trong tâm trạng cùa người ra đi. Câu hỏi tu từ mình có nhớ ta vừa là lời đối thoại vừa là cái cầu nối xuống câu dưới và đấy cũng là cái cớ để bày tỏ tấm lòng, nỗi niềm của mình. Với Tố Hữu người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ Thương nhau chia củ sắn lùi — Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của hoa cùng người. Từ xưa đến nay, trong văn chương nghệ thuật, hoa và trăng là biểu tượng cho cái đẹp của thiên nhiên tạo vật. Ở đây hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Hoa ở bên người để người mang gương mặt sắc màu của hoa. Người bên hoa để cho hoa mang hồn người. Hoa và người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại, câu lục dành cho nhớ hoa, câu bát dành cho nhớ người. Cảnh và người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.
Đọc đoạn thơ trên, chúng ta có cảm giác đoạn thơ được tác giả viết không hề trau chuốt mà như cứ tuôn chảy từ một tấm lòng nhớ thương da diết của người cán bộ về xuôi. Qua đây ta thấy rõ cảnh và người cùng những hoạt động của nó ở núi rừng chiến khu Việt Bắc cứ lần lượt hiện lên có đủ bốn mùa trong năm, mỗi mùa có một màu sắc, âm thanh chủ đạo tạo thành một bộ tứ bình đặc sắc: khi lẳng dịu, khi rực rỡ chói chang, khi rộn ràng náo nức, khi du dương lung linh. Trong tám câu thơ tiếp theo nỗi nhớ ấy lần lượt hiện lên với tất cả những gì đẹp nhất, thơ mộng nhất.
Mở đầu cho bức tranh tứ bình là khung cảnh mùa đông, một mùa đông mang vẻ đẹp đặc trưng lạ lùng của núi rừng Việt Bắc:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Câu thơ tả nổi hình, nổi khối những cánh rừng Việt Bắc tràn ngập một màu xanh của cây lá, màu xanh của sự sống. Giữa màu xanh bạt ngàn bừng lên một màu đỏ tươi của hoa chuối, màu đỏ tươi sáng ấm áp như xua đi không khí lạnh lẽo hoang sơ của núi rừng. Một cảnh sắc của mùa đông mang đậm tính chất hiện đại không giống như bức tranh mùa đông lạnh giá của nhà thơ Việt Phương:
Mùa đông đến gió lùa qua phên cửa
Phía trời xa mây cũng ủ ê buồn
Cây trụi lá đứng tần ngần ngõ nhỏ
Ai có về tôi gửi áo len cho.
Hai màu xanh đỏ tương phản nhưng cùng tô điểm cho bức tranh thiên nhiên thêm đẹp rực rỡ với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu “đỏ tươi” gam màu nóng của bông hoa chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của rìmg, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.
(Bảo kính cảnh giới số 43)
Giữa bạt ngàn xanh của núi rừng Việt Bắc, màu đỏ của hoa chuối bỗng gợi lên sự ấm áp, có sức lan tỏa. Hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại.
Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến. Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kì vĩ, hùng tráng hơn. Ở đây, nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ờ ngang lưng của người dân Việt Bắc. Đấy là cái tư thế làm chủ núi rừng đầy kiêu hãnh và vững chãi: Đèo cao thì mặc đèo cao/ Trèo lên đỉnh núi ta cao hơn đèo. Giữa núi và náng, giữa trời cao bao la vời vợi và rừng xanh mênh mang. Cái nắng hiếm hoi của mùa đông đã tô điểm cho bức tranh thiên nhiên thêm tươi tắn, mang một vẻ đẹp riêng độc đáo. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất – “đèo cao”. Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do: Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là cùa chúng ta. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Mùa đông qua đi thì mùa xuân lại về mang bao nhiêu điều tốt lành đến cho con người, báo hiệu những niềm vui, sức sống âm thầm đang trỗi dậy. Màu xanh vô tận của những cánh rừng bỗng thay đối thành một màu trắng của hoa mơ:
Ngày xuân mơ nở trảng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Xuân về mang đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Ta đã biết đến nghệ thuật điểm xuyết trong thơ cổ (Cờ non xanh rợn chân trời – Cành lê trắng điểm một vài bông hoa – Truyện Kiều của Nguyễn Du) tỏ ra rất hữu hiệu. Mùa xuân Việt Bắc cũng vậy. Rừng Việt Bắc vào xuân trên khắp núi rừng những bông hoa mơ thi nhau nở rộ khoe một màu trắng tinh khiết. Cách điệp âm (mơ — nở, trắng – rừng) cùng với hình ảnh của hoa mơ (màu trắng) tạo ra một không gian vừa rộng lớn, vừa có sự rộn ràng, náo nức của thiên nhiên. Nghệ thuật đảo ngữ trong câu thơ “trắng rừng” có tác dụng nhấn mạnh rừng Việt Bắc bạt ngàn một màu trang. Màu trắng tinh khiết của hoa mơ như lấn át tất cả màu xanh của cây lá làm bừng sáng cả khu rừng. Câu thơ đem lại cho người đọc một cảm nhận không khí xuân lan tràn, không gian núi rừng mênh mông, thiên nhiên Việt Bắc giàu sức sống. Trong tả cảnh không có một âm vang nào của núi rừng nhưng vẻ đẹp của mùa xuân vẫn sinh động nhờ hoạt động của con người. Động từ “nở” làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Điều đó chứng tỏ đây là những giờ phút hoa mơ nở rộ nhất. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón Bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:
Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nỡ hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ.
(Xuân 41)
Trong sắc xuân của thiên nhiên đất trời hiện lên hình ảnh con người lao động làm việc chăm chỉ cần cù, miệt mài “chuốt từng sợi giang”. “Chuốt” là một từ chỉ động tác làm đi làm lại, người dần Việt Bắc tỉ mỉ cẩn thận trong công việc. Bằng đôi bàn tay khéo léo của mình – người dân Việt Bắc đã tạo nên những sản phẩm đẹp đan nên những chiếc nón bài thơ tình nghĩa gửi tặng bộ đội, dân công: Tay người như có phép tiên/ Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ (Việt Nam quê hương ta – Nguyễn Đình Thi). Hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút và phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc. Dường như đối với Tố Hữu bao nhiêu sợi giang là bấy nhiêu sợi nhớ. Nỗi nhớ cứ liên tiếp, đan xen vào nhau và kéo dài suốt bốn mùa trong năm.
Thời gian vận hành nhịp nhàng trong những dòng thơ. Nó bước những bước rắn rỏi, vững chắc khiến ta chẳng thế thấy phút giao mùa. Thiên nhiên Việt Bắc còn được mô tả theo chiều dọc thời gian. Thể rồi, khoảnh khắc nhàn hạ của mùa xuân cũng qua mau, con người tiếp tục sống cuộc sống của họ:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Bức tranh gợi sự chú ý cho người đọc bàng thị giác, lẫn thính giác. Đầu tiên, cái độc đáo ở đây chính là âm thanh, âm thanh mùa hạ, tiếng “ve kêu”. Câu thơ tạo ra hình ảnh nhân hóa. Con ve là loài vật – nó không chỉ biết kêu, biết gọi, mà nó còn xui khiến rừng phách đổ vàng ở đây, chúng ta nên dành một ít thời gian để tìm hiểu cái rừng phách kì lạ này. “Đổ vàng” có nghĩa là chuyển sang màu vàng nhưng nhiều và đậm hơn gợi cảm giác đột ngột. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên nó lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc. Rừng phách là những cây lạ ở miền Bắc. Nó không mọc riêng rẽ mà mọc thành rừng, rất nhạy cảm với thời tiết. Tiếng ve kêu râm ran đây đó đã báo hiệu mùa hạ, nhưng lúc này đã là cuối hạ. Cái se lạnh đang tràn ngập núi rừng, lá cây bắt đầu chuyển sang màu vàng, cả rừng phách thay áo mới, chiếc áo vàng óng ánh dưới ánh nắng mặt trời. Chữ “đổ” mà Tố Hữu sử dụng thật tinh tế. Nó vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của màu sắc, vừa diễn tả tài tình hàng đợt mưa hoa rừng phách mỗi khi có ngọn gió thoảng qua. Xuân Diệu cũng đã tìmg sử dụng từ “đổ” này để miêu tả bước đi của mùa thu:
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền.
(Thơ duyên)
Cảnh thiên nhiên đẹp và rực rỡ thế lại càng lãng mạn hơn, vì trong cánh rừng bạt ngàn ấy hiện lên hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: Nhớ cô em gái hái măng một mình Đọc tới đây khiến ta liên tưởng đến một hình ảnh tương tự trong thơ Nguyễn Bính, một nhà thơ của đồng quê:
Thơ thẩn đường chiều một khách thơ
Say nhìn ra rặng núi xanh lơ
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ.
“Hái măng một mình” mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; mà trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Từ “hái” ờ đây dường như không thể thay thế bằng một động từ nào khác như: bẻ, đốn, cắt… vì chỉ có nó mới phù hợp với nét dịu dàng, uyển chuyển, mềm mại của cô gái mà thôi. Ta hãy thử tưởng tượng bức tranh mùa hạ như thế này đẹp biết bao. Cảnh thiên nhiên tuyệt mĩ như thế lại khảm chạm thêm vào hình ảnh một người thiếu nữ nhẹ nhàng làm việc. Quả thật bức tranh vừa đẹp vừa có thần nữ. Rõ ràng thiên nhiên và con người đã hòa quyện vào nhau, tô điểm cho nhau. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương, hay lam hay làm, giàu đức hi sinh. Phải chăng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ kia có một phần nhỏ bé sự lao động thầm lặng của những cô em gái? Bao bọc lên hình ảnh này dường như chúng ta thấy sự cảm thương kín đáo của người viết. Vì sao chỉ một mình cô gái đi hái măng mà không mang lại cảm giác cô đơn lẻ loi? bởi con người ở nơi đây đã thực sự tự do, làm chủ thiên nhiên.
Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng vàng huyền ảo lung linh dịu mát:
Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Câu thơ đã xác định rõ, đây là mùa thu. Thiên nhiên mùa thu được miêu tả bằng ánh trăng. Trăng rọi hòa bình là ánh trăng chiếu sáng không khí thanh bình nơi chiến khu kháng chiến. Những ai đã từng đi qua những tháng ngày mưa bom bão đạn” đi qua bao đêm “vầng trăng” cũng quầng lên một vầng lửa máu, thì mới thấy hết sự xúc động của lòng người trong những đêm trăng hòa bình đó. Vì vậy tả cảnh trăng rừng mà không thấy vắng lặng, lạnh lẽo; mà trái lại đã gợi lên không khí rạo rực đắm say. Bởi giữa ánh trăng rừng ấy, đã vang lên tiếng hát mang đậm ân tình thủy chung của ai đó càng làm cho ánh trăng như sáng hơn và cũng lung linh, thắm đượm tình người Việt Bắc hơn. Không gian mênh mông chẳng khác gì cảnh thu huyền ảo của thơ mới:
Nai cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nghìn thu mới về.
(Huy Cận)
Hay: Trời thu nhuộm ánh tà dương
Gió thu trong quãng canh trường nỉ non
Trăng thu soi bóng cô thôn
Hỏi người lữ thứ mộng hồn về đâu?.
(Hằng Phương)
Có ai đó đã nói rằng: núi rừng Việt Bắc nhiều sắc hoa nhưng có loài hoa lạ “Hoa trăng”. Trăng đẹp nhất là trăng mùa thu. Có lẽ chính vì vậy mà bức tranh thiên nhiên và con người càng trở nên gần gũi, thân thương hơn bao giờ hết. Chữ “rọi” rất hay, nó diễn tả được ánh trăng tràn ngập cả không gian bao la. Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:
Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tinh giấc thu
Ẩy tin thắng trận liên khu báo về.
Tất cả đều nói lên niềm tin tưởng chiến thắng sẽ đến với cách mạng với đất nước, ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.
Giữa bao la ánh trăng vàng dịu mát ấy lại vang lên tiếng hát. Từ “ai” nhòa đi để tạo nên cho cả đoạn và cũng nhằm trả lời cho câu hỏi đầu tiên: Mình về mình có nhớ ta. Tuy hỏi thế nhưng trong lòng họ vẫn biết rằng con người ấy vẫn thủy chung, son sắt. Đây là lời đồng vọng trong tâm hồn của cả hai người yêu nhau cùng nhớ, cùng thương nhớ ai tiếng hát ân tình thũy chung. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng.
Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật: thể thơ lục bát với âm điệu nhẹ nhàng tình cảm, mang phong vị ca dao, dân ca đậm hồn dân tộc. Đặc biệt là qua cách xưng hô “mình” với “ta”. Cách miêu tả giàu hình ảnh, sử dụng nhiều động từ và hình ảnh giàu tính biểu cảm. Phối màu sống động. Điệp từ “nhớ” biến hóa linh hoạt để lại trong lòng người đọc bao dư vị khó quên: nhớ ta; ta nhớ; những hoa cùng người; nhớ người đan nón; nhớ cô em gái; nhớ ai tiếng hát. Tất cả đã làm nên một đoạn thơ giàu tính tạo hình về thiên nhiên và con người Việt Bắc, mở rộng hơn nữa, đó là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng trong tâm hồn của nhà thơ cách mạng – Tố Hữu. Qua đây ta thấy bao trùm cả đoạn thơ là tình cảm nhớ thương tha thiết tiếp tục âm hường chung của nghệ thuật ca dao. Câu thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển, ý nọ gợi ý kia cứ trào lên dào dạt trong lòng người ra đi và người ở lại, ở đây điệp từ “nhớ” dùng để xoáy sâu vào cảm hứng chủ đạo là hồi ức. Từ “rừng” lặp lại là khoảng không gian cho nỗi nhớ tồn tại. Màu sắc cũng ảnh hưởng không ít tới bức tranh, đỏ lặng lẽ, nhưng có sức sống. Màu con dao thể hiện sự hoạt động. Màu trắng làm thanh thoát con người và màu vàng làm cho bức tranh rực rỡ trong hoàng hôn. Rõ ràng bức tranh đã có sự hòa điệu của màu sắc. Bên cạnh đó, nhạc điệu dịu dàng trầm bổng khiến cả đoạn thơ mang âm hưởng bâng khuâng, êm êm như một khúc hát ru – khúc hát ru ki niệm. Có lẽ khúc hát ru này không của ai khác là của “ta” dành cho người nhận là “mình”. Cả “ta” và “mình” đều cùng chung nỗi nhớ, cùng chung “Tiếng hát ân tình” và ân tình sâu nặng ấy mãi còn lưu luyến vấn vương trong những tâm hồn chung thủy.
Đây là đoạn thơ vừa sâu sắc về nội dung, vừa độc đáo về nghệ thuật. Nó xứng đáng là đoạn thơ hay nhất Việt Bắc. Đoạn thơ cũng thể hiện rõ phong cách thơ Tố Hữu: trữ tình sâu lắng, tha thiết ân tình và mang đậm tính dân tộc.
Vâng! Bộ tranh tứ bình Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mĩ của núi rừng gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước. Nói về lòng yêu nước, nhà vãn I-li-a Ê-ren-bua của nước Nga từng nói: Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào đại trường giang Von-ga, con sóng Von-ga đì ra biển. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc. Đọc bộ tranh tứ bình của Việt Bẳc lại càng yêu thương thấm thía hơn cảnh đẹp của quê hương đất nước mình trên khắp mọi nẻo đường quê. Yêu quê hương nào đâu chỉ là yêu văn hóa, yêu con người, yêu tiếng mẹ đẻ mà yêu quê hương, yêu đất nước mình còn là vì nhũng cảnh trí thiên nhiên tươi đẹp ấy. Tố Hữu đã mang vào tận tâm hồn ta vẻ đẹp thiên nhiên bốn mùa tươi đẹp cho ta yêu những điều bình dị, thân thiết, gắn bó trong cuộc sống hằng ngày. Thiên nhiên đất nước ta thật đẹp thật hào hùng mà cũng thật lãng mạn biết bao. Đó là Lũng Cú đến mũi Cà Mau với chiều dài đất nước từ cực Bắc đen cực Nam, từ Tây sang Đông. Nơi có biết bao danh thẳng thiên nhiên mà nhân dân đã góp công sức tạo thành. Những sông suối thiên nhiên chảy vào dòng sông thi ca lấp lánh bao vần thơ đẹp: sông Hương, sông Thu Bồn, sông Đà Rằng, sông Hồng,… Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn ngàn năm/ Tô quốc bao giờ đẹp thế này chăng? (Tô quổc bao giờ đẹp thế này chăng?). Những ngọn núi Vọng Phu, những hòn Trống Mái… do tình yêu thủy chung của con người tạo nên. Cho đến cả những người dân bình dị cũng góp tuổi góp tên mình dựng xây nên tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân. Trong không gian sinh tồn ấy, con người Việt Nam đã sinh sống và làm việc, cùng yêu thương, đoàn kết, chia bùi sẻ ngọt, cùng chống lại bao kẻ thù hung bạo để bảo vệ độc lập dân tộc. Con người Việt Nam thật đáng tự hào, họ là những con người sổng giản dị, chết bình tâm. Thời chiến tranh quyết xông pha trận mạc, cái chết có hề chi dù trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gỏi trong da ngựa {Hịch tướng sĩ – Trần Quốc Tuấn). Thời bình, họ cần cù làm lụng, súng gươm vứt bò lại hiền như xưa. Đó là vẻ đẹp của lối sống yêu chuộng hòa bình, coi trọng danh dự, phẩm giá con người. Ngày nay, sống trong thời bình nhưng chúng ta cũng không ngừng nâng cao cảnh giác trước những diễn biến hết sức phức tạp của khu vực và thế giới, nhất là cuộc chạy đua vũ trang toàn cầu. Một cuộc chiến có thể xảy ra. Hơn bao giờ hết, mỗi bạn trẻ cần tích cực học tập để có kiến thức, nâng cao lòng yêu nước và quyết tâm bảo vệ quê hương nếu xảy ra biến cố. Nên nhớ ràng: Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thê cạn, đả có thê mòn, song chân lí ấy không bao giờ thay đổi (Hồ Chí Minh). Hãy yêu đất nước mình từ con đường đi học đến nhành cây, ngọn cỏ, từng giọng nói thầy cô đến ánh mắt mẹ cha âu yếm nhìn ta mồi buổi về nhà.
Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi. thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi, vẻ đẹp của bộ tranh tứ bình ấy giúp ta cảm nhận thấm thìa hơn tình yêu thiên nhiên của tác giả và cũng giúp chúng ta ngộ ra được tình yêu đất nước nào đâu phải ở đâu xa, yêu những điều bình dị quanh ta cũng là yêu đất nước, quê hương. Vâng! Hãy yêu quê hương, đất nước mình, vì Quê hương nếu ai không nhớ/ Sẽ không lớn nổi thành người (Đỗ Trung Quân).