Cảm nhận về truyện ngắn Vi Hành của Nguyễn Ái Quốc
Đề bài: Cảm nhận về truyện ngắn Vi Hành của Nguyễn Ái Quốc
Bài văn mẫu
Nguyễn Ái Quốc viết “Vi hành” vào đầu năm 1923 cùng với các tác phẩm khác như vở kịch Con rồng tre, truyện ngắn Lời than văn của bà Trưng Trắc, bài báo châm biếm Sở thích đặc biệt (tất cả được viết năm 1922) để lật tẩy âm mưu nổi trên. Nghĩa là vạch trần bản chất bù nhìn tay sai dơ dáy nhất của Khải Định, nhân tiện tố cáo luôn tính chất điêu trá, bịp bợm của những danh từ “văn minh, khai hoá” nơi cửa miệng của bọn thực dân ở thuộc địa.
Viết “Vi hành”, Nguyễn Ái Quốc nhằm chủ yếu vào độc giả người Pháp, trước hết là dân Pa-ri. Vì thế phải viết bằng tiếng Pháp theo phong cách Âu châu hiện đại. Và phải viết sao cho hấp dẫn đối tượng này, nghĩa là có những sáng tạo độc đáo về nghệ thuật, đồng thời phải cài vào được những chuyện thời sự nóng hổi đang được chú ý trong sinh hoạt giải trí của người Pa-ri.
Để có sức thuyết phục cao nhất đối với người Pháp, người viết phải giữ thái độ khách quan, tránh lối thoá mạ trực tiếp và lời lẽ mạt sát đao to búa lớn.
Lấy việc tố cáo, đả kích làm mục đích, truyện phải mài sắc vũ khí châm biếm. Bút pháp châm biếm độc đáo, linh hoạt, phong phú, đó là nét chủ đạo và là sức mạnh chủ yếu của nghệ thuật “Vi hành”.
Một trong những khâu then chốt của nghệ thuật truyện ngắn là xây dựng tình huống truyện sao cho độc đáo, hấp dẫn, đồng thời làm bật nổi chủ đề tác phẩm và tính cách nhân vật truyện. Đây là một trong những sáng tạo đặc sắc của tác giả “Vi hành”.
Tình huống truyện của “Vi hành” là gì ? Ấy là một tình huống oái ăm, vừa vui, vừa tạo được hiệu quả châm biếm sâu cay : tình huống nhầm lẩn. Đôi trai gái Pháp trên tàu điện ngầm đã nhầm lẫn nhân vật người dẫn truyện với Khải Định. Sự nhầm lẫn tuy là do tác giá tạo ra với dụng ý hẳn hoi, nhưng không tỏ ra khiên cưỡng, vô lí. Vì đối với người Tây, thật khó phân biệt được những bộ mặt khác nhau của người da vàng. Đối với họ “vẫn cái mũi tẹt ấy, vẫn đôi mắt xếch ấy, vẫn cái mặt bủng như vỏ chanh ấy” có gì khác nhau đâu (cũng như người Việt Nam ta rất khó phân biệt được những nét khác nhau của người Tây: cũng da trắng, mũi lõ, mắt xanh như nhau cả).
Sự nhầm lẫn ấy khiến nhân vật “tôi” có thể nghe lỏm được cuộc trò chuyện thầm lén và tinh quái của đôi trai gái Pháp về Khải Định. Vậy là Khải Định không hề xuất hiện trong tác phẩm mà chân dung hắn lại được vẽ ra hết sức cụ thể và ngộ nghĩnh. Cách lố bịch hoá tên vua bù nhìn như thế vừa giữ được tính khách quan : không phải Nguyễn Ái Quốc – một người cộng sản – cố tình mạt sát Khải Định như một kẻ thù giai cấp. Đây là người Pháp họ nghĩ và nói về hắn như thế đấy chứ !
Mà chí có trong con mắt người Pháp thì Khải Định mới trở thành hài hước đến thế. Vì là người dân một nước dân chủ, họ mới nhìn ông vua – nhất lại là ông vua một nước phương Đông – như một thứ đồ cổ, một vật lạ đến từ một đất nước xa xãm còn mông muội. Và vì là người Tây nên họ mới nhìn cái nón ra cái chụp đèn, nhìn y phục và dồ trang sức của vị hoàng đế thành những lụa là đeo trên người với những bộ hạt cườm,…
Vậy là qua cuộc trò chuyện của đôi tình nhân Pháp, liên hệ người khách An Nam ngồi bên với tên vua bù nhìn họ đã thấy ở trường đua, Khải Định hiện ra như một anh mũi tẹt, mặt bủng, đội chụp đèn lên cái đầu quấn khăn, đeo lên người rất nhiều lụa là và hạt cườm, vẻ nhút nhứt, lúng ta lúng túng,… Nhưng hắn đến đây để làm gì trên xe điện ngầm, mà sao không có tuỳ tùng hộ giá ? Họ đặt cho nhau những câu hỏi như thế và tự giải đáp cho nhau : “Thế hay là hắn đã đem tất cả các thứ đó đến tiệm cầm đổ rồi ?” ; “Có khi đã gửi tuốt ở kho hành lí nhà ga để đi chơi vi hành đấy”.
Cuộc trò chuyện cứ thế tiếp diễn, và vị “quốc vương An Nam” không còn ra thể thống gì nữa, chỉ là một kẻ tiêu xài bừa bãi, chơi bời lén lút trên đất Pa-ri.
Cái giá của Khải Định còn bị hạ thấp hơn nữa, khi đôi trai gái coi y không hơn gì một tiết mục giải trí rẻ tiền, thậm chí không mất tiền – khác với những trò giải trí khác ít nhiều đều phải mất tiền như xem hề Sác-lô hay xem vợ lẽ nàng hầu của vua Cao Miên,…
Như vậy là sáng tạo ra tình huống nhầm lẫn, tác giả đã đem đến cho tác phẩm hiệu quả nghệ thuật vể nhiều mặt :
– Làm cho câu chuyện trở nên vui và thú vị.
– Giúp thái độ trần thuật có vẻ khách quan mà đòn đả kích lại mạnh mẽ hơn.
– Nhân vật chính không có mặt mà lại được khắc hoạ đầy đủ và cụ thể hơn : phối hợp chân dung Khải Định trong y phục hoàng đế và chân dung của y trong bộ dạng “vi hành”.
“Vi hành” được thuật kể dưới hình thức một bức thư gửi cô em họ ở quê nhà (dịch ra tiếng Pháp).
Viết truyện dưới hình thức thư từ thực ra không có gì mới mẻ, độc đáo cả. Vấn đề là tác giả sử dụng hình thức này có thích hợp hay không và đạt được hiệu quả nghệ thuật như thế nào.
Thư là thể văn hết sức tự do phóng túng, nghĩa là tha hồ bắt chuyển nọ sang chuyện kia, chuyển cảnh này sang cảnh khác, đổi giọng này sang giọng nọ. Trong thư, người ta có thể thông báo sự việc, thông tin, nhắn tin, có thể bộc lộ tâm tình hoặc trao đổi suy nghĩ thầm kín của mình. Thư riêng viết cho người thân thì có thể thực hiện đủ mọi chức năng như vậy. Bức thư “Vi hành” thuộc loại này.
Chuyển giọng, chuyển cảnh linh hoạt
Nhờ hình thức viết thư, tác giả đang từ giọng tự sự khách quan (tường thuật cuộc trò chuyện của đôi trai gái Pháp trên tàu điện ngầm ở Pa-ri) chuyển ngay sang giọng trữ tình thân mật khi tâm sự với cô em họ ở quê nhà. Có thể tìm thấy trong “Vi hành” nhiều giọng điệu khác nhau, khi nghiêm trang, khi lạnh lùng sắc sảo, khi thân mật tâm tình,… Tuy nhiên, giọng điệu chi phối tất cả vẫn là giọng mỉa mai, châm biếm, bề ngoài nhiều khi có vẻ nhẹ nhàng và vui nữa, nhưng thực ra đều là những đòn đả kích sâu cay, mãnh liệt :
“- Đổi xe ở đây chứ, anh yêu ơi ?
– Không, ga sau. Đúng lúc đó thì có một anh vua đến với chúng ta.
– Em thì thích Sác-lô hơn. Với lại, vua, thì tốn lắm !
– Đâu có ! Thế em còn nhớ buổi dạ hội thuộc địa ở Nhà hát Ca vũ đấy chứ ? Phải trả những nghìn rưỡi phơ-răng để xem vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên, xem tụi làm trò leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ Công-gô ; hôm nay chúng mình có mất tí tiền nào đâu mà được xem vua đang ngay cạnh ? Nghe nói ông bầu Nhà hát Múa rối có ý định kí giao kèo thuê đấy,…”.
Nhờ hình thức viết thư, tác phẩm cũng có thể chuyển cảnh một cách thoải mái : từ cảnh đi xe điện ngầm ở Pa-ri chuyển thẳng tới cảnh quê nhà thời thơ ấu của tác giả khi còn ngồi vắt vẻo trên đầu gối của ông bác để nghe kể chuyên cổ tích ; từ chuyện cải trang của vua Thuấn bên Tàu, vua Pi-e bên Nga, đến chuyện “vi hành” của những ông hoàng bà chúa vì những lí do “không cao thượng bằng”,…
Liên hệ tạt ngang, so sánh thoải mái nhằm châm hiếm nhiều đối tượng một lúc.
Thứ nhất là thư riêng, là một thể văn rất chủ quan, người viết có thể đưa ra đủ mọi cảm nghĩ tự do của mình, đồng thời liên tưởng tạt ngang từ đối tượng này đến đối tượng khác, nhiều khi chẳng có quan hệ dính dáng gì với nhau. Tác giả “Vi hành” đã làm như thế. Chẳng hạn từ câu chuyện “vi hành” của Khải Định, người viết đưa ra đủ thứ phán đoán giả định về hành vi bất chính và tư cách dơ dáy của y, với những “phải chăng ngài muốn”, “hay là… ngài muốn”. Ai cấm được người viết thư riêng cho người thân có thể suy luận thoải mái như thế. Đặc biệt, từ sự nhầm lẫn của đôi trai gái người Pháp, tác giả liên hệ một cách mỉa mai và bất ngờ đến bọn mật thám ở Pa-ri luôn luôn bám theo gót những người cách mạng Việt Nam theo lệnh của chính quyền phản động : “Cái vui nhất là ngay đến Chính phủ cũng chẳng nhận ra được khách thật của mình nữa, và để chắc chắn khỏi thất thố trong nhiệm vụ tiếp tân, Chính phủ bèn đối đãi với tất cả mọi người An Nam vào hàng vua chúa và phái tuỳ tùng đi hộ giá tuốt ! […] Có thể nói là các vị bám lấy đế giày tôi, dính chặt với tôi như hình với bóng. Và thật tình là các vị cuống cuồng cả lên nếu mất hút tôi chỉ trong dăm phút !”.
“Vi hành” là một bằng chứng cho thấy, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, tuy không bao giờ tự nhận là một nghệ sĩ, nhưng thật sự là một tài năng nghệ thuật. Tác phẩm đầy tính chiến đấu, nghệ thuật châm biếm độc đáo, linh hoạt và đa dạng, dường như mỗi chi tiết, mỗi câu, mỗi chữ đều mài sắc như những lưỡi dao phóng vào kẻ địch.