Nguyễn Du được xem là “một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn”. Anh (chị) hãy phân tích những tác phẩm mà mình yêu thích của Nguyễn Du để làm sáng tỏ nhận định trên

0

“Một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn”, ấy là thiên tài Nguyễn Du. Nguyễn Du thường nói đến cái Tâm và cái Tài và đề cao: “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”. Nhưng ở Nguyễn Du, người ta thấy sự cân xứng, hài hoà: một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn. Tâm lớn mà Tài cũng lớn. Đọc Nguyễn Du nhất là “Truyện Kiều”, người ta thấy đó là những “lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu”, và người ta cũng thấy rằng tất cà lời ngọc ý vàng ấy đếu được viết ra từ một tấm lòng đau đớn cho thân phận con người, cho thời thế và cho nhân thế – ”Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Ngọc của nghệ thuật Nguyễn Du đúng là kết tinh từ vết thương lòng của một con trai chìm nổi trong biển đời!

Chúng ta đã nói đến trái tim của Nguyễn Du – trái tim mang trong nó một nỗi đau vĩ đại. Đọc thơ Nguyễn Du thấy trái tim ấy dành tình thương cho tất cả: từ những người ông tận mắt chứng kiến đến những người được nghe kể, truyền tụng, từ người sống cùng thời, là đồng bào, đồng nạn, đến những người sống ở những thời đại khác, chân trời khác, từ người sang cho đến người hèn, từ trẻ thơ cho đến người già, phụ nữ. V.V.. ông thương người mẹ lang thang cầu bơ cầu bất, lê mình đi ăn xin cho ba dứa con, thương những đứa “tiểu nhi tấm bé, lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha”, thương người ca kỹ ờ đất Thăng Long người hát rong ở đất Thái Bình ở đây là nỗi xót xa cho nhưng Tiểu Ganh, Đạm Tiên, ờ kia là nỗi đau đớn nghẹn lòng dành cho Khuất Nguyên Đỗ Phù, Van Thiên Tường. Tỷ Can, Liễu Tử Hậu… Trái tim của Nguyễn Du thật dễ động, dễ tổn thương, sự đổng cảm của nó lả không biên giới, không thời gian. Mọi nỗi buồn đau, thống khổ của kiếp người vang động đến đều có thể làm cho trái tim ấy rỉ máu. Ngòi bút của Nguyễn Du chấm vào thứ máu ấy mà viết nên những trang thơ.

Nhưng nhìn thật sâu vào, ta sẽ thấy ông xót xa nhất cho con người trong cảnh dâu bể, trong những đổi thay trớ trêu khốn lường của cuộc đời. Trong những cơn dâu bể, thân phận con người thật là mong manh bị quăng quật, bị dập vùi, bị dày xéo, bị xoay vần đến xác xơ, tan tác. Cả xã hội phong kiến lẫn định mệnh mù quáng, tai quái đều vào hùa với nhau để hành hạ con người. Mà trong cành bể dâu kia, thân phận bi kịch điển hình nhất là những người tài sắc. Họ như những bông hoa nở trong giông tố. Trong đó, danh nhân cũng hoá nạn nhân, vàng ngọc cũng hoá đất bùn…

Thương xót và căm phẫn, trái tim Nguyễn Du đã phẫn nộ trước những thế lực chà đạp con người, huỷ hoại tài năng. Đó là loài hổ báo, ruồi xanh, thuổng luồng… Trong bài “Phản chiêu hồn”, ông đã viết vẳ cành đời nước Sở, (và có lẽ không chỉ của nước Sở), thuộc về một lũ thượng quan ngựa xe vênh váo, chúng không để lộ nanh vuốt nhưng cắn xé thịt người ngọt xớt như đường. Ông khuyên hồn của Khuất Nguyên đừng về mặt đất này mà hãy mau mau và hãy yên lòng “thu tinh thần về với Thái Hư”. Bởi:

Đời sau ai ai cũng là thượng quan

Mặt dất đâu đâu cũng là sông Mịch La

Cá rồng không ăn thịt, hùm sói cũng ăn mất.

Mặt mặt đất như thế làm gì có đất sống cho những tâm hồn cao khiết như Khuất Nguyên, những tài hoa như Đỗ Phủ, Liễu Tử Hậu!… Không chỉ phẫn nộ trước những thế lực xã hội, ông còn phẫn nộ với cả những thế lực siêu hình đã chụp lên đầu con người những định mệnh tàn nhẫn mù quáng:

Chém cha cái số hoa dào

Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi (Kiều)

Phận sao phận bạc nhu vôi (Kiều)

Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi (Độcc tiểu Thanh kí)

(Cổ kim hận sự thiên nan vấn).

Và trong trái tim kia, ta thấy cái phần thống thiết nhất, ông đã dành cho thân phận bi kịch của những người đàn bà tài sắc. Họ là những kẻ Hồng nhan bạc mệnh, tài hoa bạc mệnh. Đặc biệt là những kĩ nữ. Những kẻ ca kỹ có lẽ là nạn nhân bi đát nhất, thương tâm nhất trong cuộc đời đầy lang sói, hùm beo, nhan nhản những bọn buôn thịt bán người, trong cái cõi đời lắm biến thiên dâu bể này. Đó là những cô cẩm hai mươi nãm trước tài sắc nổi tiếng Long thành, vương hầu, công tử, quan lại xúm xít quanh mình, thế mà nay đã thành một bà già tàn tạ “Tóc hoa rầm mặt vỗ mình gầy” bị bỏ quên ngay bên tiệc rượu. Đó là người ca sĩ đất La Thành, người hát rong ở Thái Bình. Đó là “Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi – Nổi danh tài sắc một thì” thế mà “Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương”, giờ chỉ còn “Sề sề nấm đất bên đường”… Đó là Tiểu Thanh “Son phấn có thần chôn vẫn hận – văn chương không mệnh đốt còn vương”… Và hơn tất cả, đó là Thuý Kiều Làn thu thuỷ nét xuân sơn – Mây ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”, lại “Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”. Ấy thế mà thật bạc mệnh “Khi sao phong gấm rù là – Gió sao tan tác như hoa giữa dường”, cả một kiếp người truân chuyên chìm nổi “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Bị dày xéo xuống tận bùn đen nhơ bẩn. Mỗi lẩn muốn ngoi lên vượt thoát kiếp sống ô nhục lại bị đạp xuống đau hơn, sâu hơn, bế tác hơn…

Viết về những con người ấy, đối với Nguyễn Du, cũng là viết về mình, “Cùng một lứa bên trời lận dận” cả thôi! Vừa là lòng nhân ái của một con người dành cho một con người. Nhưng cũng là nỗi niêm của kẻ tri kỷ, nỗi niềm của kẻ cùng hội cùng thuyền, đồng bệnh tương liên! “Thương người như thể thương thân”. Nguyễn Du thấy mình ở trong họ, thấy họ ở trong mình. Cho nên lời thơ ông chân thành đến tận đáy lòng. Ông đã truyền được tất cả những đau đớn của trái tim vào những điều mình viết để thành những “tiếng thơ ai động đất trời”.

Nguyễn Du là ngòi bút thiên tài. “Truyện Kiều” vốn được sáng tạo từ cuốn tiểu thuyết tài tử giai nhân không mấy tiếng tăm của Thanh Tâm Tài Nhân là “Kim Vân Kiều truyện”. Nhưng bằng một bút lực phi thường, ông đã sáng tao thành một kiệt tác bất hủ. Truyện Kiều thực la một thế giới sống động, Nguyễn Du đáng được xem là một đấng hoá công đà sáng tạo nên thế giới ấy. Từ những nhân vật còn sơ lược, nhạt mờ, thậm chí tầm thường thế mà thi hào đã thổi vào đó một sức sống mới, tạo ra một sức vóc mới, biến chúng thành những hình tượng bất hủ. Chẳng những các nhân vật chính diện: Thuý Kiều, Thuý Vân, Kim Trọng, Từ Hài, Thúc Sinh mà ngay đến cả những nhân vật phản diện cũng sắc nét, chân thực có ý nghĩa điển hình to lớn: Tú bà, Hoạn Thư, Sở Khanh, Mã Giám Sinh, Hổ Tôn Hiến… Có thể nói, “Truyện Kiều” là hình ảnh thu nhỏ của cả một xã hội đen tối thời phong kiến.

Là một nghệ sĩ lớn, Nguyễn Du không chỉ tài hoa trong khác hoạ nhân vật mà còn hết sức tài hoa trong việc mô tà thiên nhiên. Có thể gặp trong “Truyện Kiều” những bức tranh tuyệt bút mà một nền thơ ca có thể có. Mùa xuân thì: “Cỏ non xanh dợn chân trời – Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”, “Dưới cầu nước chảy trong veo – Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”, Mùa hạ thì: “Dưới trăng quyên đã gọi hè – Đầu tường lửa lựu lập loe đâm bông”, Mùa thu thì: “Rừng phong thu dã nhuốm màu quan san” – “Long lanh đầy nước in trời – Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng” V. V… Bức tranh nào cũng lộng lẫy mỹ lệ, hình tượng thơ như long lanh trên mặt đá quý, bức tranh nào cùng ánh lên cái thần thái của nó.

Nguyễn Du cũng là một bậc thẩy về ngôn ngữ. Chưa có ở đâu mà tiếng Việt lại đẹp đẽ, trong trẻo giàu có, hoàn hào như trong “Truyện Kiều”. Chỉ một câu: “Nửa chững xuân thoắt gảy cành thiên hương”, có thể thấy chữ thoắt thân tình thế nào trong việc thể hiện cái bi kich bạc mệnh bất ngờ của kiếp tài hoa ngắn ngủi của Đạm Tiên. Hay một câu: Cậy em em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Chỉ với bổn chữ “cậy”, “chịu”, “lạy”, “thưa”, ta đã thấy sự chuẩn xác đến tuyệt vời của chữ nghĩa Nguyễn Du trong việc thể hiện nỗi niềm đau đớn, cảnh ngộ trớ trêu của Thuý Kiều. Xuân Diệu là một thi sĩ hiện đại, cũng là một bậc thầy của ngôn ngữ, nhưng đả phải ngà mũ trước từng câu, từng từ nhò nhất của Nguyễn Du. Ông thấy chữ “nhuốm” là tình diệu: “Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”, chữ “trĩu” là thần tình: “Giọt sương trĩu nặng cành xuân la đà”. Chữ “thú” là đầy bàn lĩnh “Giang hồ quen thú vẫy vùng”.v.v…

Có thể nói tiếng Việt của chúng ta được giàu có và đẹp đẽ như ngày nay, có một phấn rất lớn thuộc về công lao got rũa. tình luyện của những nghệ sĩ lớn như Nguyễn Du

“Là một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn”, Nguyễn Du xứng đáng được coi là một thiên tài, một danh nhân văn hoá, không chi của Việt Nam mà còn là của chung nhân loại. Việc UNESCO tổ chức kỷ niệm 200 năm sinh thi hào Nguyễn Du trên phạm vi thế giới là một đánh giá xứng đáng đối với tầm cỡ của ông. Ông thuộc về những người có thể làm vinh dự cho mọi nền văn hóa.

Leave a comment