Nỗi nhớ da diết và sâu nặng đối với quê hương cách mạng đã dệt nên bức tranh tứ bình về Việt Bắc đẹp như trong cảnh thần tiên

0

ĐỀ BÀI: Nỗi nhớ da diết và sâu nặng đối với quê hương cách mạng đã dệt nên bức tranh tứ bình về Việt Bắc đẹp như trong cảnh thần tiên:

Ta về, mình có nhớ ta

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

(Tố Hữu – Việt Bắc)

Phân tích đoạn thơ trên, nêu lên những cảm nhận của anh (chị) về cảnh và người Việt Bắc, về tình nghĩa gắn bó với quê hương cách mạng của nhà thơ.

DÀN BÀI

1. Phân tích đoạn thơ

Mười câu thơ trên là đoạn thơ thứ năm của bài thơ Việt Bắc, tự nó đã có tính hoàn chỉnh. Đó là bức tranh toàn cảnh và tiêu biểu của Việt Bắc qua bốn mùa trong năm. Bức tranh ấy hiện lên thật sinh động trong âm điệu nhịp nhàng, tha thiết yêu thương. Bức tranh ấy rực rỡ, tươi tắn nhưng cũng bâng khuâng, man mác vì nó được lọc qua nỗi nhớ của người về xuôi. Nỗi nhớ được bộc lộ tha thiết trong buổi chia tay:

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Hai lần “ta về” láy lại ở đầu câu – cùng một thời điểm chia tay, nhưng câu trên là hỏi người, câu dưới là giãi bày lòng mình. Cái giọng thơ tâm tình của Tố Hữu ở đây thật ngọt ngào dễ thương. Cuộc chia tay giữa người kháng chiến và người Việt Bắc, giữa miền ngược và miền xuôi đã trở thành một cuộc “giã hạn” đôi lứa (ta – mình). Nỗi nhớ về những ngày gian nan, gắn bó với cảnh và người Việt Bắc cứ hiện dần trong tâm trí người đi. Cảnh vật, con người Việt Bắc, cái gì cũng đáng yêu, đáng nhớ. Nhớ trước nhất là hoa cùng người. Hoa và người hòa quyện trong nỗi nhớ. Nhớ hoa là nhớ tới cái đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, mà cái đẹp của Việt Bắc không thể tách rời với cái đẹp của những con người Việt Bắc đã từng cưu mang, gắn bó với người đi, với cách mạng, vẻ đẹp của bức tranh Việt Bắc, trước tiên, là vẻ đẹp của sự gắn bó giữa thiên nhiên và con người.

2. Bức tranh tứ bình về Việt Bắc đẹp và đáng yêu

Bức tranh đó được tả bằng những câu thơ êm ả, nhẹ nhàng. Có màu sắc tươi tắn rực rỡ, có ánh sáng lung linh chan hòa, có âm thanh vui tươi đầm ấm. Cảnh và người hòa quyện vào nhau: bốn cặp lục bát tả bốn mùa, thì câu trên nhớ cảnh, câu dưới nhớ người. Mà cảnh nào, người nào được nhắc tới cũng đều có cái riêng để nhớ. Tất cả đã hiện lên trước mắt ta một bức tranh Việt Bắc tuyệt diệu, nên thơ qua nét bút chấm phá tài tình của tác giả.

Mỗi mùa được nhà thơ nhớ lại bằng một nét tiêu biểu nhất, với cách diễn tả tinh tế gợi cảm. Nhớ mùa đông Việt Bắc là nhớ tới “rừng xanli hoa chuối đỏ tươi”. Giữa cái bạt ngàn của màu xanh, hiển hiện một màu sắc ấm nóng (tươi đỏ), bức tranh mùa đông của Việt Bắc đâu còn cái lạnh lẽo, hoang vu nữa. Xuân sang sắc màu lại đổi khác, tràn ngập sinh sôi một màu trắng tinh khiết, thơ mộng: “Ngày xuân mơ nỗ trắng rừng”. Cảnh này có gì đó giống như cảnh Bác về nước năm 1941:

Ôi sáng xuân nay, Xuân 41

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về… Im lặng. Con chim hót

Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ…

(Tố Hữu – Theo chân Bác)

Bốn cặp lục bát sau, Tố Hữu dùng để tả cảnh hè đến và cảnh mùa thu. Nếu như sắc màu chủ đạo của cảnh đông là màu xanh điểm vào đó có sắc hoa tươi đỏ, của cảnh xuân là màu trắng hoa mơ, thì của mùa hè là màu vàng tươi đẹp của rừng phách: “Ve kêu rừng phách đổ vàng”. Đây là một câu thơ vào loại hay nhất của bài thơ Việt Bắc. Câu thơ sáu chữ mà thấy được sự chuyển đổi của thời gian, sự biến đổi của cảnh sắc thiên nhiên. Câu thơ ấy ran lên một tiếng ve kêu không dứt trong màu vàng chói chang của rừng phách dưới nắng hạ. Cuối cùng, cảnh thu hiện ra với màu sắc dịu hiền của ánh trăng, màu của mơ ước về cuộc sống hòa bình giữa những ngày gian khổ. Cảnh nào cũng đẹp, mùa nào cũng đáng yêu, và mỗi mùa là một bức tranh nên thơ, kì thú.

Bức tranh bốn mùa ấy còn ánh lên vẻ đẹp đằm thắm của con người Việt Bắc. Cảnh làm nên cho người và người gắn với cảnh, chúng quyện hòa vào nhau và tô điểm cho nhau. Dường như những cảnh ấy phải có những con người này, và nhà thơ đã đưa vào bức tranh Việt Bắc những con người thật bình dị đáng yêu: hình ảnh người lên núi với lưỡi dao lấp lánh ánh nắng cạnh sườn, bàn tay “chuốt từng sợi giang” của người đan nón, và “cô em gái hái măng một mình” giữa khúc nhạc ve ran và sắc vàng rừng phách. Cả “tiếng hát ân tình” nữa cũng làm cho rừng thu êm dịu và ánh trăng hòa bình tỏa sáng lung linh.

3. Tình nghĩa gắn bó với quê hương cách mạng của nhà thơ

Không hiểu Việt Bắc sâu sắc, không yêu Việt Bắc nồng nàn và nhớ Việt Bắc tha thiết, thì không thể dựng lên bức tranh quê hương cách mạng đẹp tuyệt diệu và ấm tình người đến thế. Nhưng để có bức tranh này, còn có quan điểm đúng đắn và cách nhìn tiến bộ của nhà thơ cách mạng. Khác với những cách nhìn sai lệch trong văn học trước đây về miền núi và con người miền núi (là nơi “ma thiêng nưác độc” với những con người dữ tợn, kém văn minh…), Tố Hữu đã có một cách nhìn đầy thông cảm, thương yêu và ưu ái với quê hương cách mạng. Bức tranh thơ này chính là bắt nguồn từ sự gắn bó thủy chung, từ lòng nhớ thương sâu nặng của nhà thơ đối với cảnh và người Việt Bắc.

Tình cảm nhớ thương tha thiết ấy là âm hưởng bao trùm cả đoạn thơ và nhạc điệu dịu dàng, trầm bổng của thể thơ lục bát làm cho âm hưởng đó bâng khuâng, tha thiết. Kết cấu của bài thơ Việt Bắc là kết cấu đối đáp, có ta và mình, có người đi, kẻ ở, nhưng thực ra đó chỉ là sự phân thân của một chủ thể trữ tình. Đoạn thơ trên là lời đáp, lời giãi bày của người đi nhưng không hẳn là thế. Nhớ cảnh, nhớ người, nhớ đến tùng chi tiết sống động như vậy là nỗi nhớ chung của những người đã cùng gắn bó với nhau, đồng cam cộng khổ trong “mười lăm năm thiết tha ân tình”. Không phải ngẫu nhiên mà Tố Hữu khép lại đoạn thơ bằng “… Tiếng hát ân tình thủy chung”.

Tiếng hát ân tình ấy vấn vương trong người đi kẻ ở, vấn vương trong tâm hồn người đọc….

BÀI LÀM

Bài thơ Việt Bắc đã được đánh giá là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Bài thơ có nhiều đoạn tuyệt đẹp, “không phải là một cây bút trong tay Tố Hữu nữa mà nhiều ngọn bút cùng nở một lúc: bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người”. Đoạn thơ đang được bình giảng này là một đoạn thơ hay, thể hiện khá đặc sắc những nội dung đó.

Mười dòng thơ này thực chất có thể xem như một bài thơ độc lập để thể hiện nỗi nhớ của “ta” khi rời Việt Bắc. “Ta về”, nhưng lòng ta có bao vấn vương, thương nhớ cảnh sắc và con người Việt Bắc. Bắt đầu bằng câu hỏi tu từ: “Ta về mình có nhớ ta”, Tố Hữu đã gợi liên tưởng đến câu ca dao rất quen thuộc:

Mình về có nhớ ta chăng

Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.

Cách xưng hô mình – ta được tác giả học tập từ những áng ca dao xưa. Nhưng đến Tố Hữu, giữa ta và mình có sự chuyển hóa, khi thì chỉ người ra đi, lúc thì chỉ người ở lại. sự đắp đổi luân chuyển này góp phần thể hiện tình cảm gắn bó thân thương giữa người ra đi và người ở lại.

Cảnh chia tay giữa “mình” và “ta” hiện lên có nỗi lưu luyến, nhớ nhung nhưng hoàn toàn không mang vẻ sầu bi. Lời thơ chuyển sang thể hiện nôi nhớ của “ta” với cảnh Việt Bắc.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Bốn câu thơ đều là câu lục trong cặp lục bát nhưng được chia ra để thể hiện nỗi nhớ cảnh của “ta”. Thiên nhiên Việt Bắc ở mỗi mùa, mỗi thời điểm lại mang vẻ đẹp riêng. Mùa xuân, đó là “mơ nở trắng rừng”, còn mùa hạ, đó là tiếng ve ngân và sắc vàng rực rỡ của rừng phách. Cảnh ở đây khi thì tươi xanh, mát dịu, lúc lại bừng lên, rực rỡ với “hoa chuối đỏ tươi” và “rừng phách đổ vàng”. Bông hoa chuối đỏ tươi giữa rừng Việt Bắc đang ngày đông giá, người đi đường bắt gặp bỗng thấy ấm lòng. Câu thơ viết về mùa đông Việt Bắc mà thấy toàn màu “đỏ tươi” và ánh sáng – “nắng ánh dao gài . Thạt ấm áp và sống động, sắc màu và âm thanh của tiếng ve ngân mang đến cho cảnh Việt Bắc một vẻ quyến rũ riêng. Đứng ở mùa thu hiện tại với “trăng rọi hòa bình”, nhà thơ đã có những hoài niệm về một mùa hạ ở Việt Bắc với ấn tượng mạnh mẽ nhất khi “Ve kêu rừng phách đổ vằng”. “Phách” là loại cây riêng có ở núi rừng Việt Bác, thường nở hoa tháng 6, tháng 7. Trước lúc nở hoa, rừng cây đồng loạt thay lá, chuyển từ màu xanh sang sắc vàng chỉ trong vài ngày. Trong câu thơ, chữ “đô” được sử dụng thật đắc địa. Nó nhằm diễn tả sự chuyển màu đồng loạt, mau lẹ, như ai đổ tràn cốc màu xuống cánh rừng.

Nói đến “rừng phách đổ vàng” tức là đã thể hiện nét đẹp đặc thù của thiên nhiên Việt Bắc. Sự hòa điệu của sắc màu và âm thanh được nói đến một cách tự nhiên. Không biết tiếng ve ngân đã làm cho “rừng phách đổ vàng” hay sắc vàng của rừng phách đã làm dậy lên những tiếng ve ngân?

Bút pháp tả cảnh của nhà thơ đã có nhiều đặc sắc, nhưng nỗi nhớ Việt Bắc còn khiến cho bút tả người, tả tình của nhà thơ độc đáo hơn:

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Nhớ ai tiếng hát ân tỉnh thủy chung.

Đều là những câu thơ tái hiện lại con người Việt Bắc nhưng mỗi câu lại có một nét riêng. Có khi đó là hình ảnh cụ thể, chi tiết “chuốt từng sợi giang”, có khi đó chỉ là dấu ấn khó phai mờ. Gắn với cảnh Việt Bắc, đó là những con người trong lao động, nhẫn nại, cần cù “chuốt từng sợi giang”. Hình ảnh của những con người ấy lồng lộng giữa khung cảnh núi rừng nhưng không bị mờ, nhòa đi mà ánh nắng đèo cao kia chỉ làm đẹp thêm cho họ. Những bàn tay cần mẫn chuốt giang đan nón, “hái măng một mình” cùng với “tiếng hát ân tình” nơi núi rừng Việt Bắc chính là những gì còn đọng sâu trong tâm trí và tình cảm của “ta” để khi “ta về”, “ta” sẽ nhớ mãi “những hoa cùng người”. Cảnh ấy và người ấy, nằm trong sự gắn bó, cứ nhớ cảnh lại nhớ người, nhớ người lại nhớ cảnh. Cấu trúc thơ lục bát được tác giả sử dụng trong dụng ý không thể tách rời cảnh và người. Cứ nhớ đến “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi” lại hiện lên trong tâm khảm ánh dao gài thắt lưng của người đi rừng làm nương… Những điệp từ “nhớ” lặp đi lặp lại nhiều lần càng làm nổi rõ hơn tình cam của “ta” khi rời Việt Bẩc. Người ở lại đã cất lên tiếng hát “ân tình thủy chung” nhưng cũng là nói họ nỗi lòng của người đi với bao nhiêu ân tình. “Ta” hẳn phải có một tình cảm yêu thương sâu sắc với cảnh và người Việt Bắc thì mới có được những dòng thơ mang nét đẹp và nhiều cảin xúc đen như thế.

Sử dụng thể thơ lục bát, mỗi câu lục bát lại nhằm diễn tả một mùa, đoạn thơ có một cấu trúc cân đối, hài hòa, trôi chảy. Chính điều này góp phần tạo nên âm điệu ngọt ngào như khúc hát ru quen thuộc, như rót vào lòng bạn đọc. Đoạn thơ mười câu thể hiện nỗi niềm nhớ cảnh, nhớ người Việt Bắc. Qua nôi nhớ ấy, ta thấy tình cảm cách mạng và tình cảm dân tộc đã quyện hòa. vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc dung dị hiền hòa gắn bó với những con người lao động đẹp đẽ, sáng trong. Tình cảm giữa “ta” và “mình” rồi đây sẽ xa cách nhưng mãi mãi vẫn là ân tình, thủy chung.

Leave a comment