Phân tích bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa
Đề bài: Phân tích bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa qua đó làm rõ tư tưởng nhân đạo độc đáo và mới mẻ của nhà văn lớn Nam Cao.
Yêu cầu
– Yêu cầu của đề không phải là phân tích tác phẩm cũng không phải là phân tích nhân vật mà chỉ là phân tích một khía cạnh của nhân vật: bi kịch tinh thần. Tuy nhiên, để làm được việc ấy phải nắm được tác phẩm, trong trường hợp này, phải nắm toàn bộ tư tưởng, hành động, tính cách của nhân vật. – Không chỉ phân tích bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ mà quan trọng hơn, qua đó thấy được tư tưởng nhân đạo độc đáo và mới mẻ của nhà văn lớn Nam Cao.
Bài làm
Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, người đọc gặp bi kịch của kiếp “tài hoa bạc mệnh”, ở Chí Phèo của Nam Cao, là bi kịch của những khát khao lương thiện và cũng với Nam Gao ta gặp Đời thừa, tấm bi kịch tinh thần của người trí thức, Đời thừa bộc Ịộ rõ nét “tư tưởng nhân đạo mới mẻ độc đáo của nhà văn lớn Nam Cao”.
Bi kịch tinh thần của Hộ trong Đời thừa là bi kịch của một nhà văn – một trí thức giữa “cơn dâu bể” của cuộc đời, giữa một xã hội “chó đểu” (Vũ Trọng Phụng) – Nhà văn ấy giữ được phẩm giá của mình, ý thức được “thiên chức” cao cả của mình, vậy mà đành bó tay bất lực.
Có thể nói, bi kịch đầu tiên trong tấn bi kịch tinh thần của cuộc đời Hộ là bi kịch về những giấc mộng văn chương. Hộ đã đặt văn chương lên trên hết, văn chương dường như là khát vọng lớn nhất của anh. Anh muôn trở thành nhà văn chân chính – nhà văn biết “mở hồn đón lây những vang vọng ,của đời”. Anh mơ ước đến một ngày anh sẽ viết được một tác phẩm lớn chung cho cả loài người. Nó đề cập đến những vấn đề bức xúc của cả xã hội, của cả nhân loại. Nó nổi được những cái ”lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn vừa phấn khởi. Nó chung lòng thương, sự công bằng. Nó làm cho người gần người hơn”. Và nhất định anh sẽ giật giải Nôben! Đó là cuốn tiểu thuyết vĩ đại trong đời viết văn của anh. Nó sẽ làm rạng danh cho anh, cho nền văn học nước nhà. Đó quả là một ước mơ chính đáng! Không phải người nghệ sĩ nào cũng khao khát như vậy khi bước vào con đường văn chương đầy khổ ải. Nhà văn phải biết xây ước mơ đẹp, và khát vọng của Hộ là khát vọng mạnh mẽ nhất và đẹp nhất. Hộ xác định đúng con đường cho mình – xác định đúng tư tưởng cho mình. Anh không sa vàọ những mơ mộng về nghệ thuật – nghệ thuật là “ánh trăng xanh huyền ảo” (như Điền trong Trăng sáng). Anh thấy ánh trăng của nghệ thuật biết “làm đẹp cả những cảnh thật rã chỉ tầm thường xấu xa”. Quan điểm của anh đúng đắn lắm! Tư tưởng của anh tiến bộ lắm! Thế nhưng, trong sáng tác của mình anh đã viết những gì? Anh đã cho ra đời những sáng tác như thế nào? Anh không hướng nghệ thuật vào “thứ văn chương của bọn nhàn rỗi”, nhưng anh đã viết những gì từ khi anh bắt tay vào sáng tác? Chao ôi! Thực tế có phải bao giờ cũng chiều theo khát vọng và đẹp nhự khát vọng đâu! Anh đã viết những bài mà thậm chí khi đọc thấy tên của mình dưới bài viết, ánh phải “đỏ mặt” xấu hổ. Anh giận dữ với chính anh. Anh khinh ghét những tác phẩm chỉ biết “gợi những tình cảm rất nhẹ rất nông bằng một thứ văn quá ư bằng ‘phẳng dễ dãi” của chính mình. Dường như anh hoảng hốt, anh ngạc nhiên trước những bài viết của mình mới ra đời. Anh dằn vặt ghê gớm. Anh muôn nhưng có phải bao giờ ước muốn cũng thành hiện thực đâu! Và đó chính là cái bi kịch của anh – bi kịch của một đời viết văn – bi kịch của người hiểu mình biết mình phải làm gì và đành lựa bút theo những điều chẳng hề muốn. Tôi như cảm thấy cái đau đớn khủng khiếp tự chôn sâu thẳm của tâm hồn anh. Một cái gì đó bỗng chốc đổ sụp trong anh. Đấy chính là sự sụp đổ của một khát vọng đẹp và chân chính.
Anh phải viết ẩu như thế, bôi bác như thế chính là vì những ràng buộc của “áo cơm”. Chao ôi! Giá như anh cứ được bay nhảy với những giấc mơ ấy! Nhưng “cơm áo không đùa với khách thơ” (Xuân Diệu). Anh còn vợ và một đàn con nhỏ. Kiếp người với bao toan tính bộn bề níu kéo anh, không cho anh bay lên cùng giấc mộng của đời trai trẻ. Chính những nỗi lo về tiền bạc đã buộc anh phải viết những bài trái với lương, tâm và trách nhiệm. Trong đầu anh luôn quay cuồng với những tính toán về giá cả sinh hoạt, về bữa ăn hàng ngày… thì đâu còn chỗ cho văn chương nữa. Anh phải viết thật nhanh, thật nhiều để người vợ, đàn con và chính anh khỏi chết đói. Giá như anh cứ dứt bỏ cái mộng văn chương thì chắc đời anh chẳng khốn đốn đến thế! Nhưng anh cần nghĩ tới tác phẩm của anh – cái tác phẩm cho toàn nhân loại nên anh lại càng đau đớn! Nước mắt anh không chảy nhưng đớn đau thì chồng chất tập trung hơn. Chao ôi! “Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn cất cánh bay cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất” (Sống mòn). Đó chính là bi kịch của cuộc đời viết văn của anh – bi kịch của những giấc mộng văn chương chính là ở chỗ đó! Và tưởng như giấc mộng văn chương ấy chính là điều day dứt trong anh mãi không thôi.
Phải có những hiểu biết sâu sắc về tâm tư tình cảm cọn người thì Nam .Cao mới viết những dòng đầy cảm xúc như thế! Dường như những day dứt trong cuộc đời ông – cuộc đời văn sĩ khổ ải – đã nhập vào những suy tư của Hộ, đã nhập vào tấm bi kịch tinh thần của Hộ. Có người nổi,Hộ chính là hình ảnh của nhà văn Nam Cao thời kì trước cách mạng. Tôi không hoàn toàn nghĩ thế. Nam Cao đã có thể bị cơm áo ghì chặt nhưng Nam.Cao hơn hẳn Hộ ông đã biết vượt lên trên những lo toan ấy để biến giấc mơ thành hiện thực. Ông đã viết những lời văn hay nhất, đẹp nhất về cuộc đời về những kiếp lầm than và chắc chắn Nam Cao không phải đỏ mặt khi thấy tên mình sau những tác phẩm như Chí Phèo, Đời thừa… Bởi chính đó là nơi giấc mơ văn chương nảy nở. Có thể tự tin mà nói rằng với Đời thừa, Nam Cao đã bộc lộ được tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của mình khi viết những dòng bi kịch về Hộ. Kinh nghiệm và sống đã cho ông viết những điều có sức rung dộng, lay chuyển lòng người đến thế! – chính là nhờ tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của nhà văn Nam Cao. Nhân đạo của sự ca ngợi khát vọng đẹp đẽ của Hộ, nhân đạo ở sự cảm thông sâu sắc với người trí thức… Và có được những dòng như thế cũng là nhờ cái nhân đạo “mới mẻ” độc đáo của Nam Cao. Qua bi kịch tinh thần đầu tiên này của Hộ, Nam Cao đã bộc lộ được sự cảm thông, trân trọng bao kiếp người lao khổ trong cuộc đời này. Và phải chăng tư tưởng ấy đã kế thừa được của cha ông lòng nhân đạo truyền thông. Nhà văn không “phản ánh để phản ánh” mà sau những câu chữ tưởng như lãnh đạm, thờ ơ chính là một trái tim nhiệt thành, sôi nổi – một trái tim của tình nghĩa.