Phân tích cơ sở thực tế bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh
Các ý chính:
Cơ sở thực tế: Xác định thời điểm lịch sử, vạch rõ sự phi nghĩa của thực dân Pháp (chính trị: thâm độc; kinh tế: dã man; bản chất: đè tiện); nêu cao chính nghĩa của dân tộc Việt Nam (chiến đấu dũng cảm, bản chất nhân đạo). Sự thật lịch sử: Kết quả của Cách mạng tháng Tám -1945 là thực tế độc lập của nước Việt Nam khẳng định thực tế độc lập.
(…) Ở thời điểm lịch sử khi bản Tuyên ngôn ra đời, chủ quyền độc lập của dân tộc Việt Nam đang bị đe dọa bởi nguy cơ xâm lược của đế quốc Mĩ và thực dân Pháp. Đẩy lùi nguy cơ ấy phải là một cuộc chiến đấu vũ trang của toàn dân tộc nhưng cuộc chiến đấu ấy cần có thời gian chuẩn bị lực lượng, cần có sự đồng tình ủng hộ của nhân loại tiến bộ. Do đó chỉ xác lập cơ sở pháp lí chưa đủ, cần phải bằng thực tế hiển nhiên vạch rõ sự phi nghĩa của thực dân và nêu cao sự chính nghĩa của dân tộc Việt Nam.
– Trước hết qua những chứng cứ cụ thể, xác thực, bản Tuyên ngôn đã vạch trần những việc làm trái hẳn với nhân đạo và trái với chính nghĩa của thực dân Pháp. Chúng đã lợi dụng danh nghĩa của người đi “khai hóa”, “bảo hộ” và núp dưới lá cờ “Tự do – bình đẳng – bác ái” để cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Về chính trị, thực dân Pháp dùng những thủ đoạn thâm độc để tiêu diệt ý chí chiến đấu của người Việt Nam: chúng không cho nhân dân ta được hưởng tự do dân chủ, chúng chia cắt ba miền bằng ba chế độ chính trị khác nhau nhằm phá vỡ tinh thần đoàn kết thống nhất của nhân dân ta, chúng thi hành chính sách ngu dân, dùng rượu cồn, thuốc phiện để đầu độc nhân dân ta. về kinh tế, chúng dùng nhiều biện pháp dã man để tiêu diệt sức mạnh chiến đấu của người Việt Nam, chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu, chúng giữ độc quyền xuất cảng, nhập cảng, độc quyền in giấy bạc, chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí để có thể vơ vét tiền bạc, của cải. Tất cả dẫn đến thảm cảnh 2 triệu đồng bào ta chết đói. về bản chất, thực dân Pháp là những kẻ đê tiện, vô nhân đạo bởi vì chúng đã không “bảo hộ” được nước ta mà trái lại chỉ trong 5 năm (1940 – 1945), chúng đã hai lần dâng nước ta cho Nhật, tồi tệ hơn chúng đã không hưởng ứng lời kêu gọi của Việt Minh hợp tác chống Nhật mà chúng còn quay lại khủng bố Việt Minh, giết hại tù chính trị và những người yêu nước của nhân dân ta.
– Bằng nghệ thuật so sánh tương phản đầy sức thuyết phục, bản Tuyên ngôn nêu rõ lẽ phải và chính nghĩa hoàn toàn thuộc về dân tộc Việt Nam. Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đồng minh và đã hai lần dâng Đông Dương cho Nhật, tiếp tay, tiếp sức để bọn phát xít mở rộng chiến tranh thì dân tộc Việt Nam, đại diện là Việt Minh đã dũng cảm chiến đấu chống phát xít Nhật và cuối cùng giành được chủ quyền độc lập cho dân tộc. Nếu thực dân Pháp tỏ rõ bản chất dã man, vô nhân đạo thì dân tộc Việt Nam đã thể hiện sự khoan hồng và nhân đạo ngay với kẻ thù đã bị thất thế “Sau cuộc biến dộng ngày 9-3, Việt Minh đã giúp cho người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ”.
– Từ tất cả những điều đó, bản Tuyên ngôn đi tới những sự thật lịch sử quan trọng. Trước hết, có thể thấy từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải của Pháp; khi Nhật đầu hàng Đồng minh, nhân dân ta đã giành chính quyền từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Điều đó có ý nghĩa bác bỏ chủ quyền của Pháp với Việt Nam đồng thời cho thay dân tộc ta đã khẳng định chủ quyền độc lập không chỉ bằng cơ sở pháp lí vững chắc mà còn bằng hành động cụ thể trong Cách mạng tháng Tám. Một sự thật hiển nhiên nữa là bọn thực dân, phát xít, phong kiến đều hết thời, độc lập đã là một thực tế ở Việt Nam, dân tộc ta đã có một chính thể mới để bảo vệ nền độc lập của mình: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiểng xích gần 100 năm nay dể gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dẫn ta lại đánh đổ chế độ quân chủ trong mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”. (…)