Phân tích vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong bài ca dao Tát nước đầu đình
Trong kho tàng ca dao – dân ca phong phú của dân tộc ta. tình yêu nam – nữ là một đề tài rất phổ biến. Có thể nói những câu ca dao hay nhất, những khúc hát đẹp nhất phần lớn đều nói về tình yêu với những cung bậc sắc thái khác nhau. Tát nước đầu đình là bài ca dao tỏ tình, là khúc nhạc dạo đầu cho một bàn tình ca. Ở đây, chàng trai – nhân vật trữ tỉnh đã hiện lên với vẻ đẹp tuyệt vời, vừa thiết tha chân thành vừa thống minh tình tế. Chính nhân vật này đã góp phần tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài ca.
Người xưa thường nói “vạn sự khởi đầu nan”, tức là mọi việc khó nhất là ở khâu mở đấu. Mở đầu cho một câu chuyện tô tình vốn là câu chuyện hết sức tế nhị, kín đáo thì lại càng khó khăn gấp bội. Có lẽ, vì thế nên từ xa xưa. ông bà ta thường phải nhờ cậy vào người làm mối để tạo cầu nối giữa đôi trai – gái/để giúp họ (nhất là bên người con trai vượt qua được bước đầu khó khăn này). Tuy vậy, tình yêu vốn huyền diệu, nên ở mỗi thời, ở mỗi hoàn cảnh, người con trai thường có cách thức riêng để đạt mục đích ấy, đúng như nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét: “Khi trong lòng đã có chút tình ý, người ta bỗng nhiên có những sáng kiến, những ve văn, những thống minh, những hát ca… Để làm quen, để bắt chuyện với cô gái mà mình đã thầm yêu vụng nhớ, có người ngô lời xin gáo nước:
Hỡi cô gánh nước quang mây
Cho anh gáo nước tưới cây ngô đông.
Người thì lại tình nguyện xin được cùng cắt cô:
Cô kia cát cô một mình
Cho anh cắt với chung tình làm đôi.
Cô còn cắt nữa hay thối,
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng.
Còn chàng trai – nhân vật trữ tình trong bài ca dao này đã khéo léo tìm dược cái cớ là xin cái áo bô quên. Anh ta mở đầu:
Hồm qua tát nước đầu đình
Bô quên cái áo trên cành hoa sen.
Như vậy, việc bô quên cái áo được giới thiệu thật cụ thể: có thời gian (hồm qua), có không gian (đầu đình) và gắn với một công việc lao động quen thuộc của người nông dân là “tát nước”. Vị trí cái áo bô quên cũng được xác định cụ thể “trên cành hoa sen”. Câu chuyện tưởng như có lí, thậm chí được trình bày khá chính xác, nhưng kì thực lại rất vô lí, khiến người đọc bài ca phải băn khoăn: Sen làm gì có cành? Có ai Đại dột để áo lên hoa sen yếu ớt? Thì ra, đây chỉ cái cớ đươc chàng trai sáng tạo, để có cơ hội giãi bày lời tô tình mà mình đã ấp ủ từ lâu. Và điều quan trọng là những câu mở đầu này gợi ra được cả một khung cảnh quen thuộc, có những hình ảnh dường như đã trở thành ước lệ khi nói về nông thốn Việt Nam. Đình làng vốn là nơi thờ cũng, song đông thời nó củng là nơi diễn ra những hội hè đình đám, là nơi gặp gỡ hẹn hò của bao thế hệ trai gái quê ta. Chả thế, từ xa xưa đã có câu hát xao xuyến lòng người:
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
Bên cạnh hình ảnh “đẩu đình” còn có hình ảnh của “hoa sen” trắng trong bình dị “gần bùn mà chẳng hỏi tanh mùi bùn”. Những hình ảnh nói trên ít nhiều đã tạo nên ở cô gái và người đọc một trường liên tưởng thẩm mĩ và chứng tô nhân vật chàng trai ở đây là một nông dân vừa gắn bó với nghề nông vừa không kém phần tình tế trong việc tạo nên cái cớ để tiếp cận cô gái. Hơn nữa, nếu đặt hai câu mở đầu trong hoàn cảnh diễn xướng, ngoài ngôn ngữ của bài ca, côn có “ngôn ngữ” của đôi mắt tình tứ, của nụ cười đằm thắm…, thì không ai nghĩ rằng, cô gái sữ chỉ ra cái vô lí của chàng trai, trái lại chắc rằng cô sẽ tiếp nhận câu chuyện một cách tự nhiên, hồn nhiên và xem đây như là cách nói hoa mĩ làm đẹp lòng người nghe cùa một chàng trai tình tế, có văn hoá giao tiếp. Vả lại cô gái có lạ gì cách nói hoa mĩ ấy. Nó vẫn thường thấy trong ca dao, giúp trai gái bộc bạch những tình cảm của mình một cách kín đáo đáng yêu:
Bây giờ mận mới hỏi đào:
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa:
Vườn hồng có lối, nhưng chưa ai vào.
Như thế cũng có nghĩa là lời mở đầu đã được chấp nhận, bởi sự khéo léo, tình tế của chàng trai. Tiếp theo, anh ta đưa ra lời ướm thử:
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà?
Câu đầu buông ra tự nhiên. Người để quên hỏi vu vơ, may ra nhận được vật cũ cũng là lẽ thường tình. Nhưng đến câu thứ hai rõ ràng có sự chuyển biến đột ngột, bất ngờ, tạo nên một sự ràng buộc thật khó chối từ. Và nghiễm nhiên, cô gái bỗng trở thành đương sự, được đưa vào trong cuộc một cách tự nhiên.Ở cái tuổi trăng tròn, khoé mắt và nụ cười đều biết nói, cô hiểu được mục đích cuộc trò chuyện này, và biết rằng mình đang đối diện với một chàng trai thống minh, tế nhị nhưng cũng đầy chất nam tính vừa hào hoa vừa chân thật, vừa láu lỉnh vừa rất đỗi táo bạo và tự tin..
Có lẽ cô gái khó tránh khỏi sự lúng túng trước sự dắt dẫn câu chuyện quá đột ngột của chàng trai chăng. Dường như đoán được tâm tư ấy, chàng trai liền kể tiếp câu chuyện với những lời thật chân thành và ngọt ngào
Áo anh sứt chỉ đường tà
…Áo anh sứt chỉ đã lâu.
Như trẽn đă nói chiếc áo bô quên chỉ là cái cớ để chàng trai giãi bày lời tô tình. Đến đây, hình ảnh chiếc áo lại được nhắc đến một lần nữa. Có phải từ xa xưa, tấm áo, chiếc khăn là những vật dụng hàm chứa nhiều khả năng làm cho con tim người thiếu nữ dễ dàng rung động? Bởi có lẽ chúng đánh thức thiên chức vá may của họ trong cuộc sống gia đình. Trong ca dao không hiếm những câu, người phụ nữ nói về tấm áo thật cảm động, như:
Chồng ta áo rách ta thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người.
hay
Áo xông hương của chồng vắt mắc
Đêm em nằm, em đắp lấy hơi.
Do đó, có thể nói, chàng trai hoàn toàn có dụng ý khi nhắc đến chiếc áo. Và điều đáng lưu ý nữa là sự nhắc lại này được diễn ra hết sức tự nhiên. Vì bất cứ ai muốn nhận lại của đã mất thỉ việc đầu tiên là phải mô tả lại vật đó. Đặc điểm lớn nhất của tấm áo mà anh con trai nói đến là “sứt chỉ” ở “ đường tà” anh không nói màu gì, dài rộng ra sao; áo anh chỉ “sứt chỉ” và “sứt chi đã lâu”, chứ không bị rách. Như vậy, anh chỉ thiếu người khâu vá, mong có người khâu vá “từ lâu” chứ không phải là kẻ túng bấn. Anh gợi tình yêu chứ chẳng cần lòng thương hại. Bởi lẽ từ thương hại đến coi thường chỉ là gang tấc, mà bị coi thường thỉ làm sao có tình yêu. Đến đây, một lần nữa, cô gái và người đọc không thể không cảm nhận được tình cảm thiết tha và tư thế đàng hoàng của nhân vật trữ tình trong khi bày tô tình yêu.
Nhưng, tất cả những chi tiết nêu trên chẳng qua chủ yếu cũng chỉ là phần “dẫn dắt” để chàng trai đưa ra được thật đúng lúc thống tin quan trọng nhất sau đây:
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu.
Nhờ chiếc áo sứt chỉ anh giới thiệu được trọn vẹn nét chính yếu trong bản “Sơ yếu lý lịch” của mình, giải đáp được nỗi băn khoăn thường thấy của những cô gái trước khi nhận lời đính hồn. Điều quan trọng hàng đầu là anh chưa có vợ, anh vẫn hoàn toàn đơn chiếc! Anh có mẹ già, tức là có một chỗ nương tựa tuyệt vời: “Mẹ già bằng ba lần cửa”. Gia đình anh ổn định; quá khứ và hiện tại của anh không có điều gì bất bình thường khiến cô gái phải đắn đo, trái lại nó có thể hứa hẹn một cuộc sống êm ấm hạnh phúc.
Đến đây, trái tim cô gái chác đã có ít nhiều rung động, song cũng khó tránh khỏi sự e thẹn. Chàng trai liền chuyển cách xưng hồ cụ thể, xác định “anh” – “em”, bằng cách sử dụng đại từ ngôi thứ hai “cô ấy”, như một đại từ phiếm chỉ, nhưng vẫn khá xác định trong văn cảnh củng như trong mạch trữ tình của bài ca:
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.
Mặc dù “cô ấy” có thể hiểu là cô Hồng, cô Huệ nào đó, nhưng ở đây không thể có cô nào khác ngoài người đang nói chuyện với anh. Như thế, chính từ “cô ấy” làm cho câu chuyện về việc trăm năm thành kín đáo, tế nhị, “giữ” người con gái, cho dù là người cả thẹn, vẫn có thể nán lại nghe anh nói tiếp, ở thời điểm này chỉ cần thồ vụng một chút, suông sã một chút, cô gái cũng có thể bô đi (vì e thẹn hoặc vì tự ái) và việc tô tình sẽ thất bại. Ở đây, chàng trai đã “giữ” được cô gái lại không những bằng sự chân thành thiết tha mà còn bằng sự khốn khéo trong việc sử dụng ngôn ngữ giao tiếp. Vào những trường hợp như thế, lối nói vòng vo, lấp lửng nhiều khi lại tô ra rất hiệu quả.
Đến đây, có thể hiểu chàng trai không những mang ơn cô gái (vì đã trả lại áo) mà anh còn phải trả công (theo lẽ thường tình) vì cô đã khâu hộ áo. Chàng trai đã trả công cô thật chu đáo, thật hào phómg:
Khâu rôi anh sẽ trả công
Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho.
Giúp em một thúng xôi vò
Một con lợn béo một vò rượu tăm
Giúp em đôi chiếu em nằm
Đôi chăn em đắp đôi trằm em đeo.
Giúp em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.
Bằng biện pháp điệp từ, điệp ngữ và điệp cấu trúc câu. Đoạn ca này đột ngột chuyển sang một “gam” khác. Nhạc điệu duờng như mạnh và nhanh hơn, thể hiện một niềm hào hứng, hân hoan. Tất cả đô sính lễ trình ra không thiếu thứ gì, số lượng dôi dào, chất lượng tuyệt diệu. Chắc chắn cô gái cũng như mọi người không ai ngây thơ đến nôi tưởng lễ cưới này có thật, tưởng chàng trai kia là giàu có. Nhưng cô gái vẫn có quyền hãnh diện vì qua lời hứa hẹn chứng tô chàng kia trân trọng và yêu cô đến chững nào. Như vậy, ngôn ngữ giàu màu sắc khoa trương chắc hẳn được cô gái hiểu ý và lĩnh hội một cách trọn vẹn; và một lần nữa chàng trai lại thành công – thành công bằng sự khốn khéo, chân thành với mong ước tình yêu sẽ được kết thúc bằng hồn nhân, với khát vọng và niềm tin được sống trong phong lưu, sung túc.
Thế là từ việc sáng tạo ra tình huống bô quên chiếc áo, chàng trai đã nói được một cách hợp lý và lưu loát cái điều khó nói. Vẻ đẹp của bài ca dao này có phần quan trọng là vẻ đẹp, sức hấp dẫn của nhân vật trữ tình – một chàng trai tình tế, thống minh và rất mực hồn nhiên, chân thật.