Phương pháp liên khúc trong Đọc Tiểu Thanh kí
Đề bài: Phương pháp liên khúc trong Đọc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du
Bài văn mẫu
Tiểu Thanh là người con gái nhan sắc có tài văn thơ sống ở đời Minh. Tiểu Thanh là vợ lẽ của một người họ Phùng, bị vợ cả ghen ghét hành hạ nên chết yểu. Tiểu Thanh có một tập thơ để lại cũng bị vợ cả đốt chỉ còn sót lại một phần nhỏ. cần lưu ý cụm từ “song tiền” (trước cửa sổ) đứng trước làm định ngữ cho cụm từ “nhất chỉ thư” (một tờ sách) đế làm rõ vị trí tờ sách rời.
Chữ “lụy” trong bài thơ là động từ tứ sứ, có nghĩa là làm vấn vương, xao xuyến. Chữ “cư” có nghĩa là gánh vác trong cụm từ “ngã tự cư ” có nghĩa tự chuốc lấy vào thân.
Trong câu kết bài thơ có phần trạng ngữ “tam bách dư niên hậu”. Nguyên văn cả hai câu kết là: “Bất tri tam bách dư niên hậu – Thiên hạ hà nhân khấp Tô’ Như?” có nghĩa là không biết sau hơn ba trăm năm, người nào sẽ khóc Tô’ Như đây? Câu thơ đã làm rõ ý tứ người khóc là có, duy chỉ không biết là người nào cụ thể. Làm sao biết được việc và người chưa xảy ra nên tác giả dùng từ phủ định “bất tri”.
Nguyễn Du lấy tên tự Tố Như là có ý cho mình cũng là một trong số người tài hoa nhưng tủi phận.
Điểm qua vài nét về xuất xứ. Câu chữ cần được hiếu và ngay cả hàm ý trong tên tự Tô’ Như để thấy tính chất tượng trưng của những hình ảnh cụ thể trong Đọc Tiểu Thanh kí. Khi đọc bài thơ cần phải biết khái quát hóa ý nghĩa biểu tượng của những hình ảnh cụ thể trong câu thơ sẽ nhận ra ý tưởng thơ gợi tả một quy luật phố biến mà khắc nghiệt con người phải gánh chịu. Đó là “sự tương đô’ giữa sắc và mệnh”. Trong sắc đẹp của Tiểu Thanh còn có cả tài thơ nên luận đề của bài thơ cũng được hiểu liên khúc với “tài mệnh tương đố”, một chủ đề gần gũi sẽ được tô đậm hơn trong kiệt tác Truyện Kiều.
Định hướng phân tích Đọc Tiểu Thanh kí theo suy nghĩ như vậy sẽ thấy rõ hơn chiều sâu tâm trạng trữ tình trong bài thơ. Chúng tôi gọi cách phân tích để hiểu bài thơ này là “phương pháp liên khúc”.
Liên khúc chủ yếu tìm ra môi liên hệ nội tại trong cấu trúc nghệ thuật của bài thơ, đồng thời phải thấy tính chất tương liên, đồng cảm giữa nhà thơ Nguyễn Du với nhân vật Tiểu Thanh để làm nổi bật chủ đề “tài mệnh tương đố” như một biểu hiện của định mệnh làm khôn khổ bao nhiêu thê’ hệ con người.
Đọc Tiểu Thanh kí được Nguyễn Du viết bằng chữ Hán theo thể Đường luật. Khi phân tích b?i thơ này nên làm thông mạch đề, thực, luận, kết của văn bản, vừa phải tìm ra ý tứ bỉ i thơ qua kết cấu ấy.
Vườn hoa (hoa uyển) đã hàm ý sắc màu rực rỡ, biểu trưng vẻ đẹp thắm tươi, đầy sức sống. Bãi hoang đặc tả cái chết khô kiệt hoàn toàn chẳng còn chút dấu vết sự sông ngày qua. Đó là sự thay đổi nhanh chóng, rất cụ thể, nhỡn tiền mà con người không tưởng tượng nổi. Câu thơ dựng lên hai cảnh trái ngược nhưng được nhìn trên cùng trục thời gian mô tả, khiến cho chúng cùng đồng hiện làm tăng thêm tính chất đối lập giữa sắc đẹp dồi dào và sự sống quá ngắn ngủi.
Câu thơ thứ hai là sự tiếp nối ý tứ đã gợi ra ở câu trên “Độc điếu song tiền nhất chỉ thư” nghĩa là một mình thương cho một tờ sách rơi vương trước cửa sổ. Cả cuốn sách đã mất mát gần hết chỉ còn lại một tờ và tồn tại lay lắt, vương vãi trong lãng quên. Rõ ra là cái phận sách chẳng ra gì! “Độc điếu” là một mình viếng thăm và thương cảm cho tờ sách chứa chan tình đời và tài năng của người đã tạo ra nó. Câu thơ biểu hiện sự thương cảm của một tấm lòng trước một tấm lòng. Chỉ riêng cụm từ “nhất chỉ thư ” (một tờ sách rơi) cũng đã tạo ra một cảnh đối lập giữa tài và mệnh, giữa tài cao và mệnh thấp.
Vào bài, câu thơ tả vật nhưng vật làm rõ mối liên thông bên trong giữa tài hoa với mệnh bạc. Mọi sáng tạo của con người bằng tài năng của mình đều là mầm mống dẫn tới phiền lụy giữa những đua tranh, ghen ghét ở đời.
Hai câu thực đã đi vào phân tích việc người, nói trực tiếp về tài sắc và mệnh bạc của con người. Cái phần ưu tú trội vượt lên của tài sắc là cái hiếm hoi không dễ có. Đó là cái thần khí của con người. Con người sinh ra từ cát bụi sẽ trở về cát bụi là lẽ thường tình. Nhưng chết đâu phải đã hết, cái thần thái tinh anh trong tài sắc là bất diệt. Người ta quý trọng nó nên càng thương xót khi nó bị vùi dập phũ phàng. Thái độ “biệt nhỡn liên tài” thật đáng trân trọng ở một tài danh như Nguyễn Du.
Hai câu thực đã khái quát số phận con người tài hoa mà bạc phận. Dường như đó là định mệnh vây hãm con người:
Rằng hồng nhan tự thuở xưa Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.
Những câu thơ tiếp theo vẫn là những liên khúc góp phần hoàn chỉnh tư tưởng chủ đề: Vãn chương vô mệnh (không mệnh sống) có gì phải đau lòng khi nó bị người đời hắt hủi? Vậy mà văn chương ở đây bị đốt chỉ còn sót lại một tờ vẫn làm đau xót lòng người. Hẳn phải là thứ văn chương “rỏ máu” để làm nên tuyệt bút. Tuyệt bút vì cái hồn người, tình đời được gửi vào văn chương ấy. Cả tài văn chương Tiểu Thanh và suy rộng ra tài hoa đã làm nảy sinh lòng đố’ kị, ghen ghét của người đời. Chính cái tài ấy là nguyên cớ của tai họa. Tài sắc là kết quả của bao nhiêu nỗ lực cá nhân nên “cậy tài” cũng là lẽ thông thường nhưng con người cũng lại phải biết:
Có tài mà cậy chi tài Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Hai câu thực trong Đọc Tiểu Thanh kí mượn cuộc đời cụ thể để minh chứng cho hiện tượng “tài mệnh tương đố” và nguyên nhân dẫn tới tai họa ấy cũng do bởi chính con người tự chuốc vạ vào mình. Đây là việc của con người xuất phát từ lồng người, thói đời nên trời làm sao biết giúp cách nào! Con người phải tự trách mình, tự cứu mình trước đã.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn Phong vận kì oan ngã tự cư.
Có phải đó là điều người đời đã biết mà vẫn không tránh được chăng?
Hiện tượng “tài mệnh tương đổ” đã trở thành phổ biến, tất yếu. Vì vậy, Nguyễn Du đề cập tới nó trong những tác phẩm sau này như một hên khúc nhân sinh.
Tài hoa là của hiếm, thương cho thân phận tài hoa là một biểu hiện của thái độ nhân ái. Đời oan khổ là thế, vậy cứu vớt thế nào đây? Nguyễn Du hé mở cho mọi thời, mọi người lối thoát để “giải nạn”. Nỗi oan uổng của tài sắc không phải là tự ông trời và hoàn toàn do định mệnh. Trời không can dự vào việc người mãi được thì hỏi làm sao? Phủ nhận “định mệnh” là để nuôi dưỡng niềm tin cho con người tự vạch ra con đường sống. Phải có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” hết mực mới đủ tâm trí nghĩ ra được lối thoát cho đời. Tài sắc do thiên phú nhưng bộc lộ tài sắc thế nào lại là chuyện của con người. Nguyễn Du nhắc nhở hậu thế về thói đời và cả những điểm yếu có trong con người tài sắc. Đó là những hướng mở để giải thoát “hận sự” và tự tu dưỡng mình. Nhà thơ không những thương yêu mà còn chỉ ra cách giải nạn cứu người. Đó mới là tình thương yêu bao la sâu sắc của con người có “con mắt nhìn thấu sáu cõi, có tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” để nhấn mạnh vai trò nỗ lực chủ quan, định đoạt số phận mỗi người. Để tránh những điều oan khuất kia phải nhờ lương tâm trong sạch và đức tâm, tự trau dồi vẻ đẹp khiêm nhường, vị tha, bao dung và trân trọng tài năng người khác. Được thế cái đức cao cả hòa hợp với tài sắc trời cho sẽ tạo ra con người có vẻ đẹp hoàn thiện. Như vậy, lòng đố kị giữa con người sẽ giảm và sự ngưỡng mộ, trân trọng con người và những giá trị của con người sẽ tăng thêm.
Mơ ước điều tốt đẹp cho con người, nhưng Nguyễn Du vẫn tỉnh táo trước hiện thực đắng cay do “tài mệnh tương đố’’ gây nên và sẽ còn tồn tại như một hiện tượng chông lại con người. “Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?”. Người như Tiểu Thanh, như Nguyễn Du trong thiên hạ không phải không có. Ông tin thế và biết rằng: “Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”. Sau hơn ba trăm năm sẽ có người nào đó lại khóc Tố Như như ông đã khóc Tiểu Thanh? Bức tranh liên khúc nhân sinh ấy sẽ đời kiếp tồn tại như một lời cảnh tỉnh con người. Từ cái đã qua được chứng kiến mà suy nghiệm ra cái sẽ xảy ra, cái sẽ tới, chứng tỏ Nguyễn Du chẳng những là kẻ đa tình mà con giàu trí tuệ và tri thức mới tạo ra được Đọc Tiểu Thanh kí. Nỗi đau khổ vì trí tuệ ấy đã thể hiện một phương diện tự soi sáng nhân tình rất tỉnh táo và hết sức bác học ở Nguyễn Du.