Sơ đồ tư duy Quan Âm Thị Kính chi tiết hay nhất

0

Nhằm mục đích giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa được kiến thức, nội dung các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 7, chúng tôi biên soạn bài viết Sơ đồ tư duy Quan Âm Thị Kính dễ nhớ, hay nhất với đầy đủ các nội dung như tìm hiểu chung về tác phẩm, tác giả, bố cục, dàn ý phân tích, bài văn mẫu phân tích, …. Hi vọng qua Sơ đồ tư duy Quan Âm Thị Kính sẽ giúp học sinh nắm được nội dung cơ bản của Quan Âm Thị Kính.

A. Sơ đồ tư duy Quan Âm Thị Kính

Quan Âm Thị Kính

B. Tìm hiểu Quan Âm Thị Kính

I. Tìm hiểu chung tác phẩm

1.Thể loại: chèo

2. Tóm tắt

Thị Kính là người con gái nết na, xinh đẹp nhà Mãng Ông được gả cho Thiện Sĩ, học trò dòng dõi thi thư. Trong một đêm Thị Kính đang vá áo nhìn chồng ngủ thấy sợi dâu mọc ngược, sẵn con dao nàng định xén đi thì Thiện Sĩ tỉnh giấc gạt tay vợ và la toáng lên. Mẹ chồng vào nghe lời kể nghi oan cho Thị Kính âm mưu giết chồng thì mắng chửi và đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Thị Kính giả nam, xin vào chùa tu được đặt là Kính Tâm. Bấy giờ trong làng có cô Thị Mầu nổi tiếng lẳng lơ dụ dỗ Kính Tâm không được thì dan díu với anh điền trong nhà. Thị Mầu mang thai, bị làng bắt phạt nên khai liều là của Kính Tâm. Thị Mầu sinh con mang tới chùa đổ vạ, Thị Kính suốt 3 năm trời ròng rã xin sữa nuôi con, cuối cùng thân tàn lực kiệt, viết thư để lại cho cha mẹ rồi chết đi. Cuối cùng mọi người mới biết Kính Tâm là nữ, bèn lập đàn giải oan cho nàng. Nàng hóa thành Phật bà Quan âm Thị Kính.

3. Bố cục trích đoạn

+ Đoạn 1: Cảnh Thị Kính xén râu mọc ngược cằm chồng, Thiện Sĩ bất ngờ hốt hoảng kêu cứu.

+ Đoạn 2: Cảnh Sùng Ông, Sùng Bà dồn dập vu oan cho con dâu và đuổi Thị Kính về nhà cha mẹ đẻ.

+ Đoạn 3: Thị Kính đi tu.

4. Giá trị nội dung

Vở chèo “Quan âm Thị Kính” nói chung và trích đoạn “Nỗi oan hại chồng” nói riêng là vở diễn và trích đoạn chèo rất tiêu biểu của sân khấu chèo truyền thống. Vở chèo và trích đoạn đã thể hiện được những phẩm chất tốt đẹp cùng nỗi oan bi thảm, bế tắc của người phụ nữ và những đối lập giai cấp thông qua xung đột gia đình, hôn nhân trong xã hội phong kiến.

5. Giá trị nghệ thuật

– Xung đột kịch gay gắt

– Miêu tả nhân vật độc đáo

II. Dàn ý bài phân tích tác phẩm

1. Thị Kính xén râu mọc ngược dưới cằm cho chồng

– Khung cảnh gia đình:

+ Chồng dùi mài kinh sử để nhập hội long vân

+ Vợ ngồi khâu quần áo, dọn kỉ cho chồng, quạt cho chồng nghỉ

⇒ Khung cảnh gia đình ấm cúng, hạnh phúc. Thị Kính dịu dàng, hết mực thương yêu, quan tâm chồng

– Thị Kính thấy râu mọc ngược dưới cằm chồng:

+ Tâm trạng: băn khoăn

+ Suy nghĩ: trước đẹp mặt chồng sau đẹp mặt ta

+ Hành động: cầm dao khâu xén chiếc râu

– Thiện Sĩ giật mình tỉnh giấc, kêu lên

2. Thị Kính bị nhà chồng vu oan và phải theo cha về nhà

* Hành động: dúi đầu Thị Kính, bắt Thị Kính ngửa mặt lên, không cho Thị Kính giãi bày, đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống đất.

* Ngôn ngữ: xỉ vả, nhiếc mắng:

Nhà họ Sùng Nhà Thị Kính
– Giống phượng giống công

– Cao môn lệnh tộc

– Trứng rồng lại nở ra rồng

– Mèo mả gà đồng

– Con nhà cua ốc

– Liu điu lại nở ra dòng liu điu

– Đồng nát thì về cầu Nôm

⇒ Khoe khoang, hãnh diện về địa vị của mình. Coi thường, khinh bỉ về xuất thân của Thị Kính

– Nghệ thuật: Liệt kê, đối lập

– Ngôn ngữ đay nghiến, sỉ vả mà Sùng Bà nói về Thị Kính:

+ Con: Mặt sứa gan lim

+ Trơ như mặt thớt

+ Sát chồng

⇒ Bà mẹ chồng độc ác, cay nghiệt, tàn nhẫn

– Tiếng kêu của Thị Kính: kêu oan 5 lần:

+ Lần 1, 2, 3: Kêu oan với mẹ chồng ⇒ Càng tăng thêm những lời đay nghiến của bà

+ Lần 4: Với Thiện Sĩ (chồng) ⇒ Thiện Sĩ bỏ mặc, nhu nhược

+ Lần 5: Với cha đẻ ⇒ Nhận được sự cảm thông

⇒ Cảnh ngộ: Cô độc, đau khổ, bất lực

⇒ Tình vợ chồng tan vỡ, bị đuổi khỏi nhà

– Đau đớn vì cha bị khinh bỉ, hành hạ ⇒ Nỗi đau lên đến cực điểm.

⇒ Sự bất lực của Thị Kính

3. Thị Kính từ biệt cha mẹ, giả dạng nam nhi tu hành

– Cuộc sống sau khi bị oan:

+ Sát hại chồng nên không thể ở lại nhà được

+ Xấu hổ không về được nhà cha mẹ

+ Không thể lấy người khác

+ Bỏ đi xa thì mang tiếng không đoan chính

+ Minh oan không ai tin

⇒ Thị Kính rơi vào đau khổ, bế tắc

– Thị Kính quyết định giả dạng nam nhi để đi tu

– Ý nghĩa hành động đi tu của Thị Kính:

+ Tích cực: Thị Kính muốn sống để tỏ rõ mình là người đoan chính

+ Tiêu cực: Thị Kính không tìm ra nguyên nhân nỗi khổ của mình, không đấu tranh mà nhẫn nhịn, cam chịu

⇒ Thị Kính không thể thoát khỏi đau khổ

III. Bài phân tích

Quan Âm Thị Kính là một trong những vở chèo nổi tiếng của dân tộc ta. Vở chèo Quan Âm Thị Kính nói chung và đoạn trích Nỗi oan hại chồng nói riêng không chỉ là tác phẩm tiêu biểu cho sân khấu chèo mà tác phẩm còn phản ánh được những nỗi oan trái, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ.

Quan Âm Thị Kính là một vở chèo cổ nổi tiếng của sân khấu chèo. Nội dung của vở chèo chia làm ba phần. Phần 1 là Án giết chồng: Thiện Sĩ, con trai Sùng ông, Sùng bà gia đình khá giả, kết duyên cùng Thị Kính, con gái Mãng ông, một nông dân nghèo. Một hôm, vợ ngồi khâu, chồng đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thấy chồng có sợi dâu mọc ngược, Thị Kính cầm dao khâu toan xén đi. Thiện Sĩ giật mình hoảng sợ vội hô hoán lên, Sùng bà giận dữ đổ riệt cho con dâu có ý giết chồng, mắng chửi thậm tệ và đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Phần 2 là Án hoang thai: Bị oan ức nhưng không thể thanh minh, Thị Kính đành giả trai, vào cửa chùa Vân Tự, lấy pháp danh là Kính Tâm. Thị Mầu, con gái phú ông, vốn tính lẳng lơ, đem lòng say mê chú tiểu Kính Tâm. Ve vãn Kính Tâm không được, Thị Mầu ăn nằm với anh Nô là đầy tớ rồi có thai. Làng bắt vạ. Bí thế, Thị Mầu đổ cho Kính Tâm, Kính Tâm chịu oan, bị sư cụ đuổi ra khỏi tam quan (cổng chùa), Thị Mầu đem con bỏ cho Kính Tâm. Phần 3 là Oan tình được giải, Thị Kính lên tòa sen: Trải qua ba năm, Kính Tâm đi xin sữa từng ngày nuôi con của Thị Mầu. Rồi nàng hóa được lên tòa sen, trở thành Phật Bà Quan Âm. Trước khi hóa, Kính Tâm viết thư để lại cho đứa trẻ. Bấy giờ mọi người mới biết Kính Tâm là gái và hiểu rõ tấm lòng từ bi nhẫn nhục của nàng.

Trích đoạn Nỗi oan hại chồng là cốt lõi trong phần mở đầu của vở chèo. Phần này có năm nhân vật tham gia vào quá trình tạo nên xung đột kịch và làm nền cho nhân vật Thị Kính bộc lộ phẩm chất cao đẹp. Thiện Sĩ và Sùng ông là những kẻ nhu nhược, không có chủ kiến, chỉ đóng vai phụ để làm nổi bật tính cách điêu ngoa, nanh ác của Sùng bà. Xung đột cơ bản của vở chèo được thể hiện qua mâu thuẫn của Sùng bà và Thị Kính (mẹ chồng, nàng dâu). Sùng bà thuộc loại nhân vật mụ ác, đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến với những thói hư tật xấu như hóm hĩnh, tự phụ về dòng giống cao sang, cả vú lấp miệng em, luôn lấy mình làm chuẩn mực để xem xét, đánh giá người khác theo nhân thức hồ đồ của mình, Thị Kính thuộc loại nhân vật nữ chính trong chèo, đại diện cho người phụ nữ lao động nghèo. Thị Kính là nàng dâu ngoan hiền nết na, thùy mị nhưng bị Sùng bà nanh ác buộc tội giết chồng. Gia đình nhà chồng đã gây ra cho Thị Kính những nỗi oan chồng chất. Nàng bị hàm oan, hạnh phúc tan vỡ, bị đuổi khỏi nhà chồng và đau khổ nhất là phải chứng kiến cảnh người cha thân yêu bị sỉ nhục.

Mở đầu là cảnh sinh hoạt đầm ấm vợ vá may thêu thùa, chồng đọc sách, Trong khung cảnh ấy nổi bật lên hình ảnh người vợ thương chồng. Những cử chỉ của Thị Kính đối diện với Thiện Sĩ rất ân cần, dịu dàng. Khi chồng học bài mệt mỗi đêm ngủ thiếp đi, nàng dọn lại kỉ rồi ngồi quạt cho chồng. Thấy sợi râu mọc ngược dưới cằm chồng, nàng băn khoăn lo lắng về một điềm báo chẳng lành. Thị Kính muốn làm đẹp cho chồng và cho mình: Trước đẹp mặt chồng, sau đẹp mặt ta…. Dạ thương chồng, lòng thiếp sao an. Âu dao bén, thiếp xén tày một mực. Tâm trạng của nàng là tâm trạng của người vợ yêu thương chồng thắm thiết. Việc làm đầy thiện ý của Thị Kính chưa kịp thực hiện thì Thiện Sĩ chợt giật mình choàng thức dậy, hốt hoảng nắm lấy con dao kêu lên: Hỡi cha! Hỡi mẹ! Hỡi xóm! Hỡi làng! Đêm hôm khuya khoắt bỗng làm sao thấy sự bất thường… khiến cho cả nhà tỉnh giấc. Chẳng cần hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện ra sao, Sùng bà đã sừng sộ khép ngay Thị Kính vào tội giết chồng: Cái con mặt gan lim này! Mày định giết con bà à? Mối oan “hại chồng” của Thị Kính bắt đầu từ một hành động tình ngay nhưng lý gian. Nàng bị bắt gặp khi đang cầm dao kề lên cổ của chồng. Dù đã hết mực ra sức biện minh, thế nhưng không một ai trong gia đình của Sùng ông, Sùng bà muốn tin rằng: Thị Kính đang dùng dao để cắt sợi râu mọc của chồng. Câu chuyện cứ thế được đẩy lên khiến Thị Kính bị rơi vào một nỗi oan không sao giải được. Thái độ của Sùng bà rất thô bạo và tàn nhẫn. Khi Thị Kính khóc lóc van xin được thanh minh, Sùng bà dúi đầu Thị Kính ngã xuống rồi lại bắt nàng ngửa mặt lên để nghe mụ chửi, chứ không cho phân bua, thanh minh gì cả.

Sùng bà nói với Thị Kính toàn là những lời đay nghiến, mắng nhiếc, lăng mạ. Dường như một lần mụ cất lời, Thị Kính lại bị kết thêm một tội. Mụ trút cho Thị Kính đủ tội mà không cần biết sự tình. Mụ xỉ vả, đuổi Thị Kính ra khỏi nhà không chỉ vì lí do cho rằng Thị Kính giết chồng mà Thị Kính còn là loại đàn bà hư đốn, tâm địa xấu xa; là con nhà thấp hèn không xứng với nhà mụ:

                                            Trứng rồng lại nở ra rồng

                                            Liu đìu lại nở ra dòng liu điu

                                            Này! Nhà bà đây cao môn lệnh tộc

                                            Mày là con nhà cua ốc

                                            Cho nên chữ tam tòng mày ăn ở đơn sai

Lời lẽ của mụ chứa đựng toàn là sự phân biệt đối xử. Vốn từ ngữ dùng để so sánh chuyện cao thấp, sang hèn, giàu nghèo… của mụ phong phú đến mức đáng sợ. Mâu thuẫn giữa mụ và Thị Kính đã vượt khỏi mâu thuẫn mẹ chồng – nàng dâu. Mụ đã trả nó vào đúng vị trí là mâu thuẫn giai cấp. Các điệu hát sắp, nói lệch… phù hợp với việc thể hiện thái độ trấn áp phũ phàng và giọng nói điệu kiêu kì, tự phụ về dòng, giống giàu sang, khinh thị người nghèo khó của mụ. Nhân vật Sùng bà chỉ xuất hiện trong một lớp diễn nhưng đã bộc lộ đầy đủ tính cách của vai mụ ác trong vai chèo cổ. Mụ ra oai sấm sét để tỏ ra “phép nhà”. Mụ tự cho mình cái quyền tạo ra “luật” và “lệ” trong gia đình Thị Kính tuy có đủ đức hạnh như lễ giáo phong kiến quy định nhưng vẫn không được gia đình chấp nhận bởi vì nàng không xuất thân từ nguồn gốc “con nhà gia thế”. Quả là mâu thuẫn giai cấp không thể dung hòa đã tác động ghê gớm đến cuộc hôn nhân này.

Khi bị mẹ chồng khép vào tội giết chồng, Thị Kính đã có những lời nói, cử chỉ thật nhẫn nhục, đáng thương. Năm lần kêu oan thì bốn lần tiếng kêu của nàng hướng về chồng và mẹ chồng. Thị Kính kêu oan với chồng nhưng vô ích bởi Thiện Sĩ là gã đàn ông đơn hèn, nhu nhược. Hắn bỏ mặc người vợ hết lòng thương yêu, chăm sóc gắn bó với mình cho bà mẹ độc ác hành hạ. Lúc này, Thiện Sĩ chỉ là một nhân vật thừa trên sân khấu. Lời van xin của Thị Kính giống như lửa đổ thêm dầu, càng làm bùng lên những lời đay nghiến lăng nhục của Sùng bà. Thị Kính càng kêu oan, nỗi oan lại càng đầy. Giữa gia đình nhà chồng người phụ nữ đức hạnh ấy hoàn toàn cô độc. Chỉ đến lần cuối cùng, Thị Kính kêu oan với cha đẻ là Mãng ông thì nàng mới nhận được sự cảm thông, nhưng đó là sự cảm thông đau khổ và bất lực. Mãng ông nói trong nước mắt:

Con ơi! Dù oan dù nhẫn chẳng oan

Xa xôi cha biết nỗi con nhường nào!

Kết cục của nối oan là tình vợ chồng giữa Thị Kính và Thiện Sĩ tan vỡ. Nàng bị đuổi ra khỏi nhà chồng. Trước khi đuổi Thị Kính, Sùng bà và Sùng ông còn nhẫn tâm dựng lên một vở kịch tàn ác: lừa Mãng ông sang ăn cữ cháu, kì thực là bắt Mãng ông nhận con gái về. Chúng có thú vui làm điều ác, muốn cha con Mãng ông phải nhục nhã ê chề. Hơn thế nữa, nhanh như trở bàn tay, Sùng ông đã thay đổi quan hệ thông gia bằng những hành động vũ phu. Sùng ông dúi ngã Mãng ông rồi bỏ vào, Thị Kính chạy vội lại đỡ cha. Hai cha con ôm nhau khóc. Sự việc Sùng bà cho gọi Mãng ông đến để trả Thị Kính đã thể hiện tính cách bất nhân bất nghĩa của mụ, đồng thời bộc lộ nỗi bất hạnh lớn nhất của Thị Kính. Thị Kính như bị đẩy đến cực điểm của bi kịch. Nàng chới với trong nỗi oan ức tày trời, nỗi đau tình vợ chồng tan vỡ cộng thêm nỗi nhục nhã, đau đoén trước ảnh người cha già kính yêu bị chính cha mẹ chồng khinh khi, hành hạ.

Cuối lớp diễn, trên sân khấu chỉ còn lại hai cha con Thị Kính lẻ loi đơn độc giữa sự vô tình đến lạnh lùng, tàn nhẫn. Cảnh hai cha con ôm nhau than khóc là hình ảnh của những người nghèo khổ chịu oan ức mà hoàn toàn bất lực. Cảnh Sùng bà quy kết, đổ vạ cho Thị Kính diễn ra chóng vánh, dồn dập. Còn cảnh hai cha con Thị Kính ôm nhau than khóc thì kéo dài trên sân khấu. Sự bố trí như vậy mang ý nghĩa tố cáo cái ác và cảm thông sâu sắc với cái thiện đang bị cái ác bủa vây giữa trùng trùng sóng dữ.

Thái độ của Thị Kính trước khi ra khỏi nhà chồng được đặc tả: Thị Kính đi theo cha mấy bước nữa, rồi dừng lại và thở than, quay vào nhìn từ cái kỉ đến sách, thúng khâu, rồi cầm chiếc áo đang khâu dở, bóp chặt trong tay. Chiếc kỉ, thúng khâu, chiếc áo đang khâu dở là bằng chứng chứng minh cho tình cảm thủy chung, hiền dịu của người vợ yêu chồng nhưng giờ đây lại bị coi là chứng cứ của sự thất tiết. Sự đảo lộn đột ngột đó đã làm cho trái tim đa cảm của Thị Kính đau đớn, bàng hoàng. Một bên là những kỉ niệm hạnh phúc của tình vợ chồng, một bên là khoảnh khắc chớp nhoáng của sự tan vỡ, chia lìa. Lời thoại gợi lên rất rõ hình ảnh một người con gái bị hàm oan đang vô cùng đau khổ và bơ vơ trước cuộc đời vô định. Thị Kính đột ngột bị đẩy vào tình thế éo le: Biết đi đâu? Về đâu bây giờ? Đời người phụ nữ trong xã hội phong kiến tránh sao khỏi cảnh Lênh đênh chiếc bách giữa dòng? Trong nỗi đau tình vợ chồng chia cắt, nỗi nhục khi phẩm giá bị chà đạp, sự ê chề khi khong bảo vệ được người cha già bị gia đình chồng sỉ nhục, Thị Kính vẫn giữ bản chất chân thật, hiền lành, giữ phép tắc luân lí của đạo dâu con. Người đọc càng xót thương, Thị Kính bao nhiêu thì càng căm ghét sự bất nhân bất nghĩa của gia đình Sùng bà bấy nhiêu.

Kết thúc đoạn trích nỗi oan hại chồng là cảnh Thị kính cúi lạy cha rồi nói lên nguyện vọng của mình là sẽ giả trai để bước vào cửa Phật tu hành. Con đường giải thoát của Thị Kính có hai mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực là Thị kính xác định phải sống ở đời, mới mong tỏ rõ là người đoan chính. Mặt tiêu cực là nàng cho rằng mình khổ do số kiếp đã định, do phận hẩm duyên ôi, nên tìm vào cửa Phật để lánh đời. Thái độ của Thị Kính thiếu cái khỏe khoắn, lạc quan, dũng cảm của những người vợ nghèo trong ca dao. Nàng không dám đứng lên chống lại những oan trái bất công, chưa đủ bản lĩnh vượt qua hoàn cảnh nghiệt ngã, trái lại đã cam chịu bằng sự nhẫn nhục đáng thương. Phản ứng của Thị Kính mới chỉ dừng lại ở lời trách móc số phận và ước muốn lòng dạ ngay thẳng của mình được nhật nguyệt sáng soi.

Vở chèo Quan Âm Thị Kính nói chung và đoạn trích Nỗi oan hại chồng nói riêng là vở diễn và trích đoạn chèo rất tiêu biểu của sân khấu chèo truyền thống, thể hiện chân thực cuộc sống bi thảm, bế tắc của nhiều số phận, đồng thời ca ngợi phẩm chất tốt đẹp, cao quý của người phụ nữ nghèo trong xã hội phong kiến xưa kia.

V. Một số lời bình về tác phẩm

Vài nét về nghệ thuật thể hiện:

1. Thiện Sĩ – chàng thư sinh khăn quấn áo the, quần ống sớ, giầy mõm ngóe, mặt sáng sủa, đi đứng khoan thai, nói năng chữ nghĩa. Choàng dậy thấy dao kề cổ thì hoảng hốt kêu váng. Chứng kiến cảnh mẹ mắng nhiếc, vu hoan cho vợ mà không một lời nói đỡ, sau cum cúp theo mẹ đi vào.

2. Mãng ông – lão nông đầu quấn khăn nhiễu, áo cánh lụa đỏ, quần đỏ kéo xếch, thắt lưng đỏ bỏ múi cạnh sườn, chân đất, lưng hơi khòng, chống gậy, ánh mắt vui, hóm, chân nam đá chân chiêu, nói năng nôm na chen chữ nghĩa, tính tình cởi mở, phong thái khoát hoạt, nói năng đôn hậu. Một lão nông người say, tâm tỉnh, vui tính dễ dãi, ai cũng mến mộ.

3. Sùng ông một lão nhà giàu trong làng – khăn quấn, áo quần lụa mỡ gà, chân giày, mày rậm, mắt sâu, nói năng chữ nghĩa, a dua cùng vợ đổ vạ cho con dâu, lừa thông gia. Một kẻ giàu có hợm hĩnh, hàm hồ, đối xử cạn tàu ráo máng, say sưa tối ngày, nói năng lè nhè, dấp dánh, chân bước ngả ngớn, dựa dẫm cùng một giuộc với mụ Sùng.

4. Sùng bà – người đẫy đà, da chì mắt xếch, môi nhai trầu cắn chỉ, nốt ruồi cạnh mép, khăn nhung vắt đuôi, áo cánh lụa sống đũi, đi dép cong, tay ve vẩy, bước khuềnh khoàng như đe, nhìn xoi mói. Mắng nhiếc phủ đầu, không cho phép Thị Kính giãi bày, mắng át, sai chồng, cả tiếng ỷ mình vào dòng dõi khinh bỉ nhà Thị Kính… Cặp nhân vật lão – mụ thể hiện càng sắc sảo sống động càng làm bổi bật rõ sự chịu đựng, nhẫn nhục của nhân vật nữ chính: Thị Kính

5. Mãng Thị Kính – kiếp tu thứ 10 của Quan Thế Âm Bồ Tát:

Đầu vấn khăn đen, yếm đào, áo cánh trắng cổ thìa, áo kép trong đỏ ngoài sa tím thoáng, khuy cổ, khuy vai không cài mà bẻ ra kín đáo để lộ nẹp đỏ, thắt lưng hoa lí, váy sồi đen bén gót, dép cong, tay phải quạt hoa, xòa che khuất mặt, tay trái nâng lên lá quạt, miệng nền nã hát, nói… Bị mẹ chồng rỉa rói vu vạ, Thị Kính sụp xuống, rũ rượi khóc lóc van vỉ kêu oan và nhẫn nhịn chịu đựng. Thị Kính một mình áo xống, đầu tóc bơ phờ, cất câu sử rầu đẫm nước mắt than thân, phận hẩm duyên ôi, trách móc những kẻ phụ lòng, trách minh lầm ngọc đá, quyết đành tu lấy thân sau cho vẹn. Được sư chùa Vân chấp nhận thụ giới, pháp danh Kính Tâm. Từ đây, nhân vật Tiểu Kính vận nâu sồng, đi đứng khoan thai, thưa gửi khiêm nhường, ngày đêm lo đèn nhang kinh kệ trong chùa.

Leave a comment