Soạn bài: Cố Hương (Lỗ Tấn)
Cố Hương của Lỗ Tấn
“Cố hương” của Lỗ Tấn là một câu chuyện của nhân vật tôi kể về chuyến thăm quê hương sau hai mươi năm xa cách với những thay đổi bất ngờ.
Mời các bạn học sinh tham khảo thêm:
Soạn bài: Phép phân tích và tổng hợp
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
– Phần đầu là hành trình trở về làng quê của nhân vật “tôi” (Tấn) – người kể chuyện (từ đầu cho đến “đang làm ăn sinh sống”).
– Phần giữa là những ngày “tôi” ở làng quê để từ biệt (từ “Tinh mơ sáng hôm sau” cho đến “xấu tốt đều mang đi sạch trơn như quét”).
– Phần cuối là “tôi” và gia đình trên đường ra đi (từ “Thuyền chúng tôi thẳng tiến” cho đến hết).
Không phải khi gặp lại và chứng kiến những thay đổi của Nhuận Thổ nên Tấn mới buồn mà cái buồn đã bao trùm ngay từ đầu truyện, trong chặng đường trở về quê hương. Có vẻ buồn của một người trở về “vĩnh biệt ngôi nhà yêu dấu và từ giã làng cũ thân yêu, đem gia đình đến nơi đất khách”, song nỗi buồn trĩu nặng tâm can là nỗi buồn trớc cảnh làng quê: “thôn xóm tiêu điều, hoang vắng, nằm im lìm dưới vòm trời vàng úa”. Khung cảnh ấy làm dấy lên nỗi nghi hoặc thầm dự cảm về những chuyện buồn rồi đây sẽ gặp ở quê hương: “hẳn làng cũ của mình vốn chỉ như thế kia thôi, tuy chưa tiến bộ hơn xưa, nhưng cũng vị tất đến nỗi thê lương như mình tưởng. Chẳng qua là tâm mình đã đổi khác…”. Sự tương phản giữa “tôi” xưa và tôi “nay” trong cảm nhận còn xuyên suốt thiên truyện.
Thực trạng thê thảm của làng quê còn được tác giả phơi bày khi ông xây dựng nhân vật Hai Dương. Thái độ của người kể chuyện lộ rõ sự châm biếm khi nói về con người này. Đó là một người đàn bà “trên dưới năm mươi tuổi, lưỡng quyền nhô ra, môi mỏng dính”, với bộ dạng “hai tay chống nạnh, không buộc thắt lưng, chân đứng chạng ra, giống hệt cái com-pa trong bộ đồ vẽ, có hai chân bé tí”. Người đàn bà đã từng được mệnh danh là “nàng Tây Thi đậu phụ” này lộ rõ tính cách hợm hĩnh, lưu manh khi bịa đặt kể công bế ẵm Tấn và chỉ chực dòm ngó chôm chỉa đồ đạc. Và còn những con người khác của cái làng quê ấy cũng thật đáng buồn: “Kẻ đến đưa chân, người đến lấy đồ đạc. Có kẻ vừa đưa chân, vừa lấy đồ đạc.”. Tất cả được bày ra như biểu thị sự tha hoá của con người.
Cho nên, ta mới hiểu tại sao kẻ từ biệt quê hương ra đi mà lòng lại không chút lưu luyến như thế. Làng quê xa đẹp đẽ là vậy, những con người khi xa đáng yêu là vậy mà hiện tại chỉ còn là những hình ảnh biến dạng, sa sút. Người ra đi chỉ còn thấy lẻ loi, ngột ngạt trong bốn bức tường vô hình, cao vọi. Ấn tượng đẹp đẽ về quê hương đã tan vỡ, hình ảnh người bạn “oai hùng, cổ đeo vòng bạc” vốn rõ nét là thế mà trong thời khắc từ biệt đã trở nên mờ nhạt, ảo não.
Nhưng đó không phải là những hình ảnh khép lại thiên truyện. Những triết lí sâu sắc về hi vọng trong cuộc sống con người vốn đã đợc ươm mầm từ khi tác giả xây dựng hình tượng hai bé Hoàng và Thuỷ Sinh. Khi Tấn sống với dòng hồi ức tuổi thơ, anh đã nhận ra: “Tôi cảm thấy tựa hồ tôi đã tìm ra được quê hương tôi đẹp ở chỗ nào rồi.”. Quê hương đẹp ở những kỉ niệm của thời niên thiếu oai hùng, thần tiên. Bây giờ, Hoàng và Thuỷ Sinh thấy khoan khoái khi ở bên nhau, chúng thân thiết với nhau, không “cách bức” như Tấn và Nhuận Thổ. Cuộc sống mới phải được bắt đầu từ những tấm lòng trẻ trong trắng, hoà đồng. Tấn nghĩ đến cuộc sống tương lai và khẳng định: “Chúng nó cần phải sống một cuộc đời mới, một cuộc đời mà chúng tôi cha từng được sống”. Thực tại còn u ám, thê lương. Nhuận Thổ xin chiếc lư hương và đôi đèn nến để thờ cúng, cũng là để cầu nguyện cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Còn “tôi” cũng đang hi vọng và mong ước những điều đẹp đẽ cho tương lai thế hệ trẻ. Những câu văn kết thúc thiên truyện chợt trở nên thâm trầm, triết lí: “đã gọi là hi vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư. Cũng như những con đường trên mặt đất; kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi.”
Đọc bài văn, chú ý giọng đọc thích hợp ntrong từng trường hợp tác giả thể hiện xen kẽ giữa các phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả, biểu cảm, lập luận.
gôi f��b`& P+ khó. Điều cần lưu ý là việc nhận diện lời của người kể chuyện “giấu mặt” – người kể trong hình thức kể theo ngôi thứ ba, khi chủ thể này xuất hiện và phát ngôn; trong nhiều trường hợp, lời của người kể chuyện dạng này có sự hoà phối nhất định với giọng, lời của nhân vật. Ví dụ: Cô nhìn thẳng vào mắt anh – những người con gái sắp xa ta, biết không bao giờ gặp ta nữa, hay nhìn ta như vậy; thì không chỉ là lời của người kể mà có sự nhập thân ở một mức độ nhất định giữa người kể và nhân vật anh thanh niên, lời ở đây vừa như cụ thể (của nhân vật) vừa như khái quát, vang lên từ một nhân vật vô hình nào đó.