Soạn bài Đây thôn Vĩ Dạ- Hàn Mạc Tử
Câu 1:
Phân tích nét đẹp phong cảnh và tâm trạng của tác giả trong khổ thơ đầu:
* Câu thơ thứ nhất: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
– Có 6 trên 7 chữ là thanh bằng, nếu đọc chữ “Vĩ” theo âm điệu của người Huế cũng sẽ là thanh bằng -> gây ấn tượng về chất giọng ngọt ngào của người Huế -> mở ra tác phẩm.
– Chủ thể câu hỏi:
+ Có thể là câu hỏi của cô gái Huế (cụ thể hơn là người trong mộng của Hàn Mặc Tử: Hoàng Thị Kim Cúc) -> mang hàm ý trách móc, hờn dỗi nhẹ nhàng; nhắc nhở, mời mọc duyên dáng.
+ Cũng có thể hiểu chủ thể câu hỏi là chính tác giả: tự phân thân để chất vấn mình -> hàm ý trách mình, nhắc mình. “Không về” -> dự cảm đau lòng về sự chia biệt và xa cách; trước đã không về, giờ không về và sau này cũng không thể về. Dùng từ “về” một cách tự nhiên, không khiên cưỡng vì Hàn Mặc Tử đã có quãng thời gian học tại đây, hơn nữa Huế không còn là vùng quê xa lạ mà là quê hương cả người mình thầm thương trộm nhớ -> miền đất gắn bó.
=> Khát khao đến với Huế.
=>khái quát tâm trạng của nhà thơ…
– “Thôn Vĩ”:
+ Miền quê đẹp, thơ mộng, trữ tình, điểm đến hấp dẫn
+ Nơi người thương đang sinh sống
-> Tăng thêm mong mỏi được trở về với xứ Huế.
* 3 câu thơ sau:
Cảnh trong buổi bình minh với những nét vẽ đặc sắc.
+ Vẻ đẹp của nắng: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”:
Lặp lại từ “nắng” hai lần trong một câu thơ
-> ấn tượng về ánh sáng tràn ngập, tươi tắn, bao phủ khắp không gian.
“Nắng hàng cau”: hình ảnh những hàng cau vươn cao đắm mình trong nguồn năng lượng thiên nhiên dồi dào bất tận. Cây cau như một cây thước của thiên nhiên đứng ở giữa vườn để đo mực nắng.
“Nắng mới lên”: những tia nắng ban mai đầu tiên trong ngày đánh thức vạn vật thế gian.
+ Vẻ đẹp của màu xanh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
“Mướt”: màu xanh của sự mỡ màng, non tơ
-> gợi sự trù phú của mảnh vườn thôn Vĩ, của xứ Huế. “Mướt” cũng có thể hiểu là màu xanh ướt nước, ướt do tắm sương đêm, hoặc do tắm mưa.
“Xanh như ngọc”: trong trẻo, tươi mát, long lánh, thanh nhẹ, mang lại cảm giác dễ chịu.
“Vườn ai”: đại từ phiếm chỉ “ai” gơi liên tưởng đến chủ nhân khu vườn là cô gái dịu dàng, duyên dáng, tình tứ; cũng có thể hiểu rõ hơn là Hoàng Thị Kim Cúc -> bức tranh cảnh vật có hồn hơn, có tình hơn.
+ Vẻ đẹp của người thôn Vĩ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Thấp thoáng hiện ra sau những cành trúc. Đó là nét đậm hiện ra sau những nét thanh.
->duyên dáng.
“Mặt chữ điền”: gương măt của người con gái xứ Huế-> ẩn chứa những nét đẹp phẩm chất.
=> Vẻ đẹp của cảnh và người hòa quyện tạo nên nét quyến rũ riêng của thôn Vĩ để làm bùng cháy nỗi khát khao được về thăm thôn Vĩ dù chỉ một lần của Hàn Mặc Tử.
=>Tâm trạng nhà thơ Ẩn chứa sau đó là ánh mắt đắm say, tấm lòng tha thiết với thôn Vĩ, với cuộc đời của Hàn Mặc Tử trong những ngày bệnh tật.
Câu 2:
Những hình ảnh thiên nhiên trong khổ thơ thứ 2:
– Ở khổ thơ thứ 2, chúng ta như đang lạc trong một khung cảnh toàn thiên nhiên nhưng lại trái tự nhiên. Có gió đấy, mây đấy nhưng chúng lại trong một hoàn cảnh tan tác bị chia lìa, mỗi thứ một ngả “gió theo lồi gió, mây đường mây”. Lẽ thường rằng gió mây luôn liền kề và song hành với nhau: gió thổi mây bay. Có lẽ đặt trong hoàn cảnh của nhà thơ lúc bấy giờ: bệnh tật và cái chết nên chính sự đớn đau của thi nhân đã thấm vào cảnh vật. Chúng vốn không chia lìa nay lại trở nên hoàn toàn nghịch trái với tự nhiên.Gió mây chia lìa đôi ngảcũng khiến cho dòng nước thấm thêm nỗi buồn, nỗi cô đơn, xa vắng: “dòng nước buồn thiu”. Hình ảnh “hoa bắp lay”càng khiến cho cảnh vật hiu hắt, cô quạnh làm tăng nỗi buồn lên, tâm trạng như càng nặng nề, chán nản hơn.
– Khung cảnh càng rơi vào hư ảo hơn với hình ảnh thuyền đậu trên bến sông trong một đêm đầy trăng. Thuyền, sông, trăng từ lâu như là bộ ba đi liền trong việc diễn tả tâm trạng, cảnh vật củathi nhân. Bến sông ngập sắc vàng của trăng và con thuyền chở trăng giàu sức gợi, sức liên tưởng đầy phong phú và vẽ ra một khung cảnh lung linh, huyền ảo. Cảnh đẹp là thế, có trăng là tri kỉ bầu bạn những chính hiện thực đang là sự ám ảnh về cuộc sống của người thi sĩ. Để từ đó, nó thể hiện sự hi vọng, mong mỏi khắc khoải và cả sự đau thương, tuyệt vọng.
Câu 3:
– Tâm sự của nhà thơ trong khổ thơ thứ 3:
Khổ thơ này như ngập tràn trong cơn mơ của tác giả. Nếu như 2 khổ thơ đầu tác giả bày tỏ tình cảm với thiên nhiên thôn Vĩ, thì ở khổ thơ cuối, tác giả đã trực tiếp tâm sự với người xứ Huế mộng mơ. Điệp ngữ “khách đường xa” được nhắc lại hai lần như để thể hiện niềm khao khát, mơ mộng, hướng đến một điều gì đó không có trong thực tại. Nó như lời tâm sự của nhà thơ với chính mình, là một niềm xót xa, hối tiếc. Giấc mơ vốn luôn mờ ảo, mông lung và không thể hiện rõ từng chi tiết. Trước lời mời của cô gái, nhà thơ như một người khách xa xôi, chỉ có về thăm thôn Vĩ trong cơn mơ. Câu thơ mang một nỗi tuyệt vọng đến đớn đau, đến xót xa. Ngoài ra cũng có thể hiểu “khách đường xa” ở đây là một người tri kỉ, một người thôn Vĩ. Hàn mơ về họ, liệu người thôn Vĩ còn nhớ hay đã quên nhà thơ rồi?Câu thơ hiện lên một giấc mơ đẹp, giấc mơ khao khát tình người trong nỗi đau đớn khôn tả. Hình ảnh người con gái trong trong câu thơ tiếp theo hiện lên với hình ảnh “áo em trắng quá” mờ ảo, huyền bí không biết là thực hay hư. Phải chăng là một màu trắng đầy ám ảnh, có thể làm lóe mắt ng đối diện? Nhưng cho dù có thế nào thì người con gái vẫn mang 1 vẻ đẹp tinh khiết, thanh cao.“Em” có thể là cô Kim Cúc,cũng có thẻ là người con gái thôn Vĩ, có thể là cô Mồng Cầm, là cô Mai Đình hay là 1 cô gái nào đó đã đi qua cuộc đời của Hàn. Dù là ai thì tất cả bây giờ chỉ là ảo ảnh. Không phải sắc áo quá trắng quá nhìn không ra mà có lẽ chính bởi những ảnh đó bây giờ chỉ là miền hoang tưởng, không thật nữa rồi, chỉ còn trong sự mờ ảo, mơ mộng hão huyền. Từ đó cho thấy sự tuyệt vọng của Hàn. Tất cả những gì đẹp nhất, hạnh phúc nhất của cuộc đời đều đang dần xa tầm tay Hàn. Màn sương khói kia là một bức tranh tả thực thời tiết ở Huế. Huế nắng nhiều mà mưa cũng nhiều nên nhiều sương khói làm mờ đi hình bóng con người. Sương và khói đều làm tăng thêm màu hư ảo, mộng mơ của xứ Huế nhưng chúng cũng có màu trắng hòa cùng màu trắng của “áo em” càng làm cho hình ảnh con người thấp thoáng, mờ ảo, thực như hư. Đồng thời, cảnh tượng đó như tượng trưng cho bao cái huyền của cuộc đời làm cho tình người trở nên ngăn cách và xa lạ. Cộng với chút hoài nghi trong câu thơ cuối như càng làm tằng nên nỗi buồn cô đơn, trống vắng, xa cách trong lòng nhà thơ. Mọi thứ lúc nào cũng như mờ ảo, mông lung, quá xa vời.
Sự hoài nghi trong câu thơ cuối:
Nếu với bức tranh thiên nhiên xứ Huế tác giả như đang hòa nhập, đắm say vào nó thì khi nói đến bức tranh con người, nhà thơ như lùi ra xa trong khoảng cách của màn sương mờ ảo. Vì thế mà câu thơ cuối như mang chút hoài nghi mà vẫn chứa chan niềm thiết tha với cuộc đười, với một tình yêu sâu thẳm.Từ “ai” xuất hiện toàn bộ bài thơ như 1 hệ vi mạch. “Ai” ở đây chính là con người trong cõi phù sinh, đau thương. Nhà thơ làm sao biết đươc “ai” kia là con người giữa dòng đời xứ Huế kia có chan chứa tình cảm hay không hay cũng mờ ảo, dễ có chóng tan như làn sương mờ ảo kia. Một từ “ai’ còn lại như đang hoài nghi liệu người Huế có biết chăng tình cảm của mình ới cảnh vật và con người nơi đây rất thắm thiết, đậm đà. Câu thơ nhưng muốn khẳng định: dù tác giả có đang trong trạng thái tuyệt vọng, đau thương, cô đơn, trống vắng nhưngmột lòng một dạ vẫn luôn hướng về “ai” – về cuộc đời, về con người với một tâm hồn tha thiết yêu thương, gắn bó. Cuộc đời vẫn đẹp là thế, thiên nhiên thôn Vĩ vẫn luôn tinh khôi, tràn trề sức sồng là thế và con người nơi đây cũng thân thuộc, đẹp đã là thế nhưng Hàn lại phải đối mặt với một thực tại chia lìa mãi mãi. Từ đó càng cho thấy sự luyến tiếc với cuộc đời, tha thiết được sống của tác giả. Dù là hư hay là thực thì tình cảm mà Hàn Mạc Tử dành cho cuộc đời vẫn luôn thắm thiết và nồng đượm.
Câu 4:
Điểm đáng chú ý trong tứ thơ và búp pháp của bài thơ:
– Tứ thơ:
Bài thơ bắt đầu với cảnh đẹp thôn Vĩ bên dòng sông Hương thơ mộng. Hàn Mặc Tử đã viết từ cảnh thật, cụ thể (hàng cau, vườn rau, vườn trúc, khuôn mặt chữ điền) cho đến những hình ảnh mang tính tượng trưng (thuyền, trăng). Tác giả tả cảnh vật thiên nhiên (2 khổ đầu) còn dành khổ cuối để tả người trong bối cảnh thiên nhiên đó. Mỗi bức tranh trong bài thơ hiện lên từ thực rồi dần dần chuyển sang ảo: bức tranh thôn Vĩ tươi sang, tinh khôi; sau đó đến những hình ảnh thuyền trên sông trăng lung linh, huyền ảo và cuối cùng là một cảnh tượng vô cùng mờ ảo sương khói, mông lung không rõ là mơ hay thực. Từ đó khơi gợi sự liên tưởng thực – ảo và mở ra bao cảm xúc, suy tư về cảnh và người mới một niềm hi vọng và tin yêu.
– Bút pháp của bài thơ:
Tác giả đã mượn cảnh tả tình (dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay). Bút pháp nghệ thuật của bài thơ được kết hợp một cách hài hòa, nhịp nhàng giữa cảnh thật và cảnh tượng trưng, giữa cái thực tế với cái lãng mạn, trữ tình. Cả hai đan xen nhau để thể hiện nỗi niềm thầm kín mà Hàn Mặc Tử muốn bộc lộ với người yêu cùng với lòng tha thiết với cuộc sống, cuộc đời.
LUYỆN TẬP:
Câu 1:
Những câu hỏi trong bài thơ không phải là những câu hỏi vấn đáp. Ở đây, tác giả hỏi đề bày tỏ tâm trạng.
+ Khổ 1: Câu hỏi” Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Có thể là câu hỏi của cô gái Huế (cụ thể hơn là người trong mộng của Hàn Mặc Tử: Hoàng Thị Kim Cúc) -> mang hàm ý trách móc, hờn dỗi nhẹ nhàng; nhắc nhở, mời mọc duyên dáng. Cũng có thể hiểu chủ thể câu hỏi là chính tác giả: tự phân thân để chất vấn mình -> hàm ý trách mình, nhắc mình. “Không về” -> dự cảm đau lòng về sự chia biệt và xa cách; trước đã không về, giờ không về và sau này cũng không thể về. Dùng từ “về” một cách tự nhiên, không khiên cưỡng vì Hàn Mặc Tử đã có quãng thời gian học tại đây, hơn nữa Huế không còn là vùng quê xa lạ mà là quê hương cả người mình thầm thương trộm nhớ -> miền đất gắn bó.
Tác giả đang tự phân thân để hỏi chính mình nhằm diễn tả nỗi ước ao tha thiết được về thăm thôn Vĩ nhưng không biết còn cơ hội nữa không.
+ Khổ 2: Câu hỏi “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay?” Toát lên niềm hi vọng đầy khắc khoải. Đó là khát khao, là ước vọng được giao duyên, được hội ngộ của nhà thơ gửi gắm qua chữ “kịp”. Khát khao đó nồng cháy, da diết nhưng cũng đầy hồi hộp, lo lắng vì bệnh tật, vì hiện thực đau thương đang từng phút giây dày vò chàng thi sĩ. Có “kịp” không hay bi kịch tình duyên lại lập lại? Có kịp không hay lại vội vàng qua? Ánh trăng làm bạn, là vẻ đẹp duy nhất người được đón nhận. Trăng xuất hiện trong câu thơ không chỉ nói ước vọng giao duyên với người con gái thương thôn vĩ mà còn là khát khao đến cháy bỏng được giao duyên với đời!
+ Khổ 3. Câu hỏi “Ai biết tình ai có đậm đà?” hỏi “Khách đường xa” hay cũng là tự hỏi mình, thể hiện tâm trạng hoài nghi. Đó là nỗi trăn trở của thi sĩ về tình người, tình đời. Nó không chỉ gói gọn là tình duyên của tác giả với Hoàng Cúc mà đó còn là tình yêu giữa người với người. Chỉ khi đặt vào những bi kịch của cuộc sống, là bệnh tật, là đau thương thì mới rõ có “đậm đà”, nồng thắm hay không? Vì vậy, đại từ phiếm chỉ “Ai” ở đây, không nói rõ một đối tượng cụ thể nên nó có tính khái quát cao. Chỉ mối tinh giữa người với người, và sau bao nhiều năm đã có rất nhiều thế hệ độc giả đồng cảm với nhà thơ!
Câu 2:
– Bài thơ được in trong tập “Thơ điên”, được sáng tác trong một hoàn cảnh thật tối tăm, tuyệt vọng (bệnh tật giày vò, nỗi ám ảnh về cái chết, về sự xa lành của người đời). Hơn nữa mối tình với người con gái Huế là nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử viết nên thi phẩm, mà tấm bưu ảnh là sự khơi gợi trực tiếp cảm xúc. Mối tình đơn phương hư ảo ấy có lẽ chỉ đem đến cho cảnh sắc thiên nhiên Vĩ Dạ thêm chất mộng mơ và thấm nỗi buồn man mác. Không nên đồng nhất mối tình ấy với tình cảm bức tranh thơ.
– Những gì Hàn Mạc Tử thể hiện trong bài thơ không chỉ là một bức tranh đẹp về miền quê đất nước, thông qua đó cho thấy tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.
=> Sự thương xót và cảm thông với số phận của tác giả đồng thời thể hiện sự cảm phục với một con người đầy tài năng và nghị lực, con người đã dũng cảm vượt lên trên hoàn cảnh nghiệt ngã để sáng tác ra một bài thơ tài hoa về tình đời, tình người.
Câu 3:
Đọc bài thơ, chúng ta đều thấy được một bức tranh thiên nhiên xứ Huế đẹp, mộng mơ, trong sáng, thông qua đó cho thấy tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.Và chúng được tác giả thể hiện trong các khổ thơ.
– Bài thơ này làm hiện lên những vẻ đẹp về cảnh và người xứ Huế qua đó cho thấy được tình yêu thiết tha, đằm thắm của tác giả đối với quê hương đất nước, với con người xứ Huế đoan trang, dịu dàng. Từ đó cho thấy một tâm hồ Hàn Mặc Tử luôn hướng về người thôn Vĩ: nhớ mong, khắc khoải, hoài nghi, vô vọng.
– Ngoài những ý ở trên thì bài thơ còn chính là tiếng lòng của tác giả- một người tài hoa đang trong một hoàn cảnh cận kề với sự sống nhưng vẫn luôn khao khátyêu đời, yêu người. Đó thứ tình cảm chân thành mà sâu sắc của Hàn Mạc Tử đã khiến cho bài thơ tạo được sự cộng hưởng rộng rãi và lâu bền trong tâm trí bạn đọc.
Giaibaitap.me