Soạn bài Một thời đại trong thi ca – Hoài Thanh
Câu 1:
Cái khó trong việc tìm ra tinh thần thơ mới là ranh giới giữa thơ cũ và thơ mới không phải rạch ròi dễ nhận ra.
* Khó khăn :
– Ranh giới giữa thơ mới thơ cũ không phải lúc nào cũng rõ ràng, dễ nhận ra: “Trời đất không phải dựng lên cùng một lần…hôm nay phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ.”
– Cả thơ mới và thơ cũ đều có những cái hay, cái dở: “Khốn nỗi cái tầm thường cái lố lăng chẳng phải của riêng thời nào.” Chính sự xáo trộn ấy đã khiến cho việc chọn được bài để so sánh, để cho thật hiểu cái “Tinh thần thơ mới” là không phải dễ.
– Ông đã đưa ra hai câu thơ để nói rõ cái khó này:
Người giai nhân: bến đợi dưới cây già;
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt.
(Xuân Diệu, thơ mới)
=> Hình ảnh ước lệ, cổ điển.
Ô hay! Cảnh cũng ưa người nhỉ!
Ai nấy ai mà chẳng ngẩn ngơ?
(thơ cũ)
=> Giọng điệu trẻ trung, hiện đại.
Nếu không biết tác giả thì không thể xác định đâu là thơ cũ đâu là thơ mới
=> “Giá các nhà thơ mới…thì tiện cho ta biết mấy… Giá trong thơ cũ … thì cũng tiện cho ta biết mấy…Khốn nỗi….Âu là ta đành phải nhận rằng….”
=> Bằng những câu văn giả định, cảm thán, với một giọng điệu thân mật, gần gũi, thiết tha, bức xúc mà chân thành, tác giả đã nêu lên được cái khó khăn mà cũng là cái khao khát của kẻ yêu văn quyết tìm cho được tinh thần thơ mới.
– Tác giả đề nghị phương pháp nhận diện thơ mới: Phương pháp so sánh đối chiếu
+ So sánh bài hay với bày hay.
+ So sánh giữa thơ cũ và thơ mới.
+ So sánh trên nguyên tắc đại thể
Câu 2:
Điều cốt lõi mà nhà thơ mới đưa đến cho thi đàn Việt Nam lúc giờ là “chữ tôi” với nghĩa tuyệt đối, sự tự ý thức về bản thân, khát vọng được thành thực.
+ Chữ “tôi” gắn với cái riêng cá nhân, cá thể; chữ ta gắn với cái chung, tập thể, cộng đồng, xã hội.
+ Chữ “tôi cá nhân” xuất hiện trong thi đàn Việt Nam vào những năm 20 thế kỷ XX, nhưng lạc lõng, bơ vơ… vì tách khỏi cái ta chung. Cái tôi lãng mạn.
+ Ví dụ một số nhà thơ: Tản Đà, Thế Lữ, Lư Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận…
Đồng thời “chữ tôi” cũng nói lên bi kịch ngấm ngầm trong hồn người thanh niên lúc bấy giờ. Chữ “tôi” của thơ mới được nhìn nhận trong mối quan hệ gắn bó với văn chương, xã hội, thời đại. Điều này giúp ta thấy ý nghĩa văn chương và ý nghĩa xã hội to lớn mà thơ mới đem lại.
Câu 3:
Cái tôi đáng thương và đáng tội nghiệp vì :
+ Mất cốt cách hiên ngang : không có khí phách ngang tàng như Lí Bạch, không có lòng tự trọng khinh cảnh cơ hàn như Nguyễn Công Trứ.
+ Rên rỉ, khổ sở, thảm hại.
+ Thiếu một lòng tin đầy đủ vào thực tại, tìm cách thoát li thực tại nhưng lại rơi vào bi kịch
nó đã đem đến cho tâm hồn họ nỗi buồn lạnh, bơ vơ, muốn thoát khỏi nhưng không được. Bởi họ là những thi nhân sống trong cuộc đời mong mỏi, tù túng của thân phận mặt nước, mang trong mình cái cô đơn bé nhỏ của thi nhân, phản ánh bi kịch của thi nhân lãng mạn và tâm lí thời đại, bi kịch lớp người trẻ đương thời.
Câu 4:
Bi kịch của người thanh niên thời ấy : Cô đơn, buồn chán, tìm cách thoát li thực tại vì thiếu lòng tin vào thực tại nhưng cuối cùng vẫn rơi vào bế tắc. (Đây cũng chính là đặc trưng cơ bản của thơ mới). Cái tôi bi kịch này “đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại” nên nó vừa có ý nghĩa văn chương vừa có ý nghĩa xã hội.
Câu 5:
Tác phẩm là một tiểu luận phức tạp, phong phú những vẫn thấy dễ hiểu và hấp dẫn vì tác giả đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật hấp dẫn, linh hoạt:
– Tính khoa học.
+ Hệ thống luận điểm chuẩn xác, sâu sắc.
+ Dẫn chứng chọn lọc, lập luận chặt chẽ đầy sức thuyết phục.
+ Sử dụng biện pháp đối chiếu, so sánh đạt hiệu quả cao.
+ Nhìn nhận đánh giá vấn đề ở tầm sâu rộng, nhiều mặt, biện chứng và khách quan.
+ Cách dẫn dắt vấn đề tự nhiên, linh hoạt, độc đáo, chuyển ý khéo léo tạo sự tiếp nối.
– Tính nghệ thuật
+ Ngôn ngữ độc đáo, đặc sắc, dung dị, dễ hiểu mà vẫn súc tích, có giá trị biểu cảm cao.
+ Lời văn tình cảm, giãi bày chia sẻ, đồng cảm, có nhiều hình ảnh gợi cảm, gợi hình, gợi liên tưởng: “Đời chúng ta…cùng Huy Cận
+ Tình cảm chân thành, nồng nhiệt.
+ Giọng văn nghị luận phê bình nhưng không khô khan mà dịu dàng, hấp dẫn, có sự trong sáng, tha thiết, cảm thông, thấm đượm tình người.
LUYỆN TẬP:
Câu 1:
Theo quan niệm của Hoài Thanh, chữ tôi và ta trong thơ mới và thơ cũ có điểm khác nhau
– Chữ tôi: nghĩa tuyệt đối
+ Không có cá nhân chỉ có đoàn thể, lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả.
+ Không tự xưng hoặc ẩn mình sau chữ ta.
– Chữ ta trong thơ cũ là cá nhân ý thức gắn với cộng đồng, đoàn thể (lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình).
+ Quan niệm cá nhân, gắn liền với cá nhân, cá thể.
+ Đi theo chữ anh, chữ bác, chữ ông đã thấy chướng. Huống chi bây giờ nó đến một mình.
+ Chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện.
Câu 2:
Lòng yêu nước của các nhà thơ mới được thể hiện ở:
– Bằng cách gửi cả vào tiếng Việt: “họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”. Hoài Thanh đã dùng hình ảnh “tấm lụa” và “tâm hồn bạch” để nói lên tình cảm đẹp đó.
– Vì tiếng Việt là tiền đề của tâm hồn và bề dày lịch sử văn hóa dân tộc: “Tiếng Việt là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua”, “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn”.
– Trân trọng tinh thần giống nòi, tâm trạng những vẻ đẹp của quá khứ dân tộc.
Câu 3:
– Cái “Tôi” của các nhà thơ mới “đáng thương” và “tội nghiệp” vì nó đã đem đến cho tâm hồn họ nỗi buồn lạnh, bơ vơ, muốn thoát khỏi nhưng không được. Bởi họ là những thi nhân sống trong cuộc đời mong mỏi, tù túng của thân phận mất nước, mang trong mình cái cô đơn bé nhỏ. Bài tiểu luận đã phản ánh bi kịch của thi nhân lãng mạn và tâm lí thời đại, bi kịch lớp người trẻ đương thời.
– Các nhà thơ mới, thế hệ thanh niên thời ấy đã thể hiện tình yêu quê hương đất nước thầm kín. Tất cả tình yêu thương ấy được họ dồn cả vào tình yêu tiếng Việt. Bởi họ tin rằng : Truyện Kiều còn, tiếng ta còn ; tiếng ta còn, nước ta còn.
Giaibaitap.me