Soạn bài Nhàn ( Nguyễn Bỉnh Khiêm )
Soạn bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Bài thơ “Nhàn” bao quát toàn bộ triết lí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vong thối nát.
I – GỢI DẪN
1. Tác giả
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương (nay thuộc Vĩnh Bảo, Hải Phòng), từng thi đỗ Trạng nguyên. Làm quan được tám năm, ông dâng sớ xin triều đình chém mười tám kẻ lộng thần nhưng không được chấp nhận. Sau đó ông xin về trí sĩ ở quê nhà, tự đặt tên hiệu là Bạch Vân cư sĩ, dựng am Bạch Vân, lập quán Trung Tân, mở trường dạy học.
Tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm gồm có tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập, tập thơ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi, tập sấm kí Trình Quốc công sấm kí,…
2. Tác phẩm
Bao trùm trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm từ khi về trí sĩ ở quê nhà là cảm hứng thanh nhàn, tự tại, gắn bó với thiên nhiên, không tơ tưởng bon chen phú quý. Cảm hứng ấy được thể hiện bằng những bài thơ có ngôn từ giản dị, tự nhiên mà cô đọng, giàu ý vị. Bài thơ Nhàn trích trong tập thơ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi là một trường hợp tiêu biểu.
3. Cách đọc
Bài thơ thể hiện cái thú nhàn dật, ung dung tự tại của một trí sĩ. Cần đọc chậm, rõ, thể hiện khí khái và giọng tự trào.
II – KIẾN THỨC CƠ BẢN
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sống gần trọn thế kỉ XVI, giai đoạn có nhiều biến cố phức tạp, nội chiến tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến diễn ra liên miên, nhân dân lầm than đói khổ trong cảnh “nồi da nấu thịt”. Sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện thái độ phê phán những thói đời bạc bẽo, ham danh lợi mà bỏ đi tình nghĩa, là một biểu hiện thanh cao của một tấm lòng thiết tha với dân tộc.
“Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm là bài thơ tiêu biểu cho mảng thơ về đề tài “tịch cư” trong văn học trung đại. Bài thơ vẽ nên một bức tranh sinh hoạt của người ẩn sĩ với thú vui dân dã. Khi về ở ẩn, Trạng Trình đã tỏ ra rất bằng lòng với lựa chọn của mình :
Cao khiết thuỳ vi thiên hạ sĩ ?An nhàn ngã thị địa trung tiên !
(Ngụ hứng)
Là tiên khách bởi được thoải mái cả về thân xác và tinh thần :
Nội đắc tâm thân lạc,Ngoại vô hình dịch luỵ.
(Bên trong được thú vui của tâm, của thân,Bên ngoài khỏi phải chạy vạy để phục dịch cho hình xác)
(Cảm hứng)
Thú vui nhàn dật, tránh xa khỏi vòng danh lợi là một đề tài khá quen thuộc của văn học thế kỉ XVI. Nhiều tác giả ca ngợi cuộc sống miền thôn dã với thú vui điền viên sơn thuỷ :
Yêu thay miền thôn tịch ;Yêu thay miền thôn tịch !Cư xử dầu lòng ;Ngao du mặc thích.Khéo chiều người mến cảnh sơn hà ;Dễ quyến khách vui miền tuyền thạch.
(Nguyễn Hàng, Tịch cư ninh thể phú)
Cuộc sống tự nhiên, thanh tao miền tịch cư đã giúp các nhà nho tránh được những phiền phức chốn quan trường. Cuộc sống nhàn tịch miền thôn dã được tác giả miêu tả ở hai câu đề và hai câu thực :
– Một mai, một cuốc, một cần câu,Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
– Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Cách dùng số từ, danh từ, từ “thơ thẩn” trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu hai câu đề gợi nên dáng vẻ ung dung trong công việc lao động hàng ngày và thể hiện những nhu cầu khiêm tốn của cuộc sống ẩn dật. Cuộc sống thật gần gũi với tự nhiên, đơn giản mà thanh sạch, vô tư, dường như không mảy may vướng bận những lo toan của cuộc sống bon chen nơi đông đúc. Cuộc sống đơn giản, với những sinh hoạt đạm bạc, mùa nào thức ấy, không phải lo lắng gì nhiều. Đủ cả bốn mùa, mỗi mùa một sản vật, vừa thể hiện thời gian quanh năm, vừa thể hiện được mối quan hệ gần gũi, hoà nhập cùng thiên nhiên. Một trong những đặc điểm nổi bật của lối sống ẩn dật là hoà nhập cùng thiên nhiên. Những nhu cầu giản dị của người ẩn sĩ đều được thiên nhiên thoả mãn một cách dễ dàng. Những sinh hoạt của người ẩn sĩ thật giản dị và thanh cao, giống như một tiên khách chốn trần gian. Bằng lòng với cuộc sống ẩn dật, người ẩn sĩ tự hào với sự lựa chọn của chính mình :
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,Người khôn, người đến chốn lao xao.
Câu thực được tạo nên bởi một lối đối rất chỉnh giữa quan niệm “dại” và “khôn”. Một lối nói chứa hàm ý mỉa mai, thể hiện sự kiên định của nhà thơ với lối sống nhàn dật. Tự nhận “ta dại” là một sự ngông ngạo của người ở ẩn, đó là cái dại của bậc đại trí trong thiên hạ. Cái dại của những người như Mạnh Hạo Nhiên, Đào Tiềm, Nguyễn Trãi :
Cầm một chương, thơ mấy quyển, đủ tháng ngày ngâm ngợi, ấy thú mầu ông Mạnh Hạo Nhiên ;Lan chín khóm, cúc ba hàng, dõi hôm sớm bù trì, này của báu ông Đào Bành Trạch.
Họ tự hào với cuộc sống ấy bởi đó là cuộc sống thanh cao. Và họ kiên định với cách lựa chọn ấy :
Dù ai cười thơ thẩn ngẩn ngơ ;Thì ta cũng ngô nghê ngốc nghếch.
(Nguyễn Hàng, Tịch cư ninh thể phú)
Những bậc đại trí ấy tìm đến “vắng vẻ”, trước tiên không phải là trốn tránh trách nhiệm với cuộc đời, mà họ đều đến nơi thôn tịch khi họ đã không thể cứu nước cứu dân, họ chọn cuộc sống giữa thiên nhiên cây cỏ khi họ phải lựa chọn giữa lối sống luồn cúi và cuộc sống thanh sạch mà nghèo cực. Dù luôn nói đến cái thảnh thơi của một người nhàn tâm thản trí nhưng thực ra trong lòng họ vẫn mang những day dứt về cuộc đời. Về ở ẩn, họ dễ tránh được “chốn lao xao”, bởi theo nhà thơ, là nơi mọi người phải đua chen trong vòng danh lợi :
Thành thị vốn đua tranh giành giật
(Thơ Nôm, bài 19)
Không nơi nào không có đua chen, tranh giành : “ở triều đình thì tranh nhau cái danh, ở chợ búa thì giành nhau cái lợi” (Bài bi kí quán Trung Tân). Ở câu thơ kết, một lần nữa tác giả khẳng định quan điểm sống của mình, đó là một cách thể hiện thái độ với cuộc đời của một nhà Nho :
Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Phú quý ở đời chỉ là chuyện phù du. Câu thơ cuối có cách ngắt nhịp khác hẳn các câu thơ còn lại. Thủng thẳng nói về cái thú nhàn dật rồi buông ra một câu kết như thế, nhà thơ đã thể hiện một cách dứt khoát thái độ của mình đối với chuyện công danh phú quý. Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn nhưng khi được vời lại sẵn sàng ra giúp vua, giúp nước bởi tấm lòng luôn “cuồn cuộn nước triều dâng” khiến ông không thể yên tâm hưởng thanh nhàn nơi thông reo bốn mùa. Để rồi ông đã không thoát được cái án oan khiên thảm khốc. Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm, với một thế thời khác đã kiên định lối sống ở ẩn. Trong một chừng mực nào đó, cách lựa chọn của Trạng Trình chưa hẳn đã là đúng. Song vì thế thời, để giữ gìn phẩm giá thanh sạch của mình, việc lựa chọn cách sống ấy cũng là một điều đáng để chúng ta trân trọng họ – những nhà nho chân chính.
Bài thơ nói về cái chí. Trước hiện thực xã hội rối ren thế kỉ XVI, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lựa chọn cách sống nhàn dật, đó chính là một cách thể hiện thái độ của nhà thơ đối với cuộc đời.
III – LIÊN HỆ
Đọc một số bài thơ khác của Nguyễn Bỉnh Khiêm để so sánh và thấy được sự đa dạng trong phong cách thơ của ông :
Hễ của tự nhiên có ít nhiềuMột kho tạo hoá cũng chia đều(1)Hương đầy tiệc khách, hoa khi rụngHứng dẫy vườn xuân, chim thuở kêu(2)Án cũ giở xem ba quyển sáchSong thưa ngơi nghỉ một con lềuNon xanh nước biếc xưa là hẹnNgẫm nghĩ đòi khi chớ(3) bấy nhiêu.
(Thơ Nôm – bài 37)
(1) Cả câu ý nói mọi người đều có thể hưởng thụ thú vui của tạo hoá như nhau, không ai có thể chiếm lấy làm của riêng.
(2) Dẫy : tiếng cổ, nghĩa là đầy dẫy. Cả câu ý nói : tiếng chim kêu ở vườn xuân đem đến hứng thú tràn đầy cho tác giả.
(3) Chớ : tiếng trợ từ, giúp cho nghĩa thêm mạnh : đã có bao lần nhà thơ nuôi chí ẩn dật, nhớ lời hẹn ước với non xanh nước biếc.
Thức dậy, tay còn sách chửa buôngKhách nào thăm hỏi sự phao tuông(1)Bếp trà hâm đã, xôi măng trúc(2)Nương cỏ cày thôi, vãi hạt muồng(3)Cửa vắng ngựa xe không quýt ríu(4)Cơm no tôm cá, kẻo thèm thuồngSơn tăng trêu khách xui người bấySơ nguyệt kình kình(5) đã gióng chuông.
(Thơ Nôm – bài 38)
(1) Phao tuông : (tiếng cổ) nghĩa là : bày đặt ra (phao) chuyện này chuyện kia một cách bừa bãi (tuông), không đúng sự thực.
(2) Cả câu ý nói : ở bếp hâm xong trà thì nấu măng trúc.
(3) Cả câu ý nói : nương cỏ cày xong rồi thì vãi hạt muồng.
(4) Quýt ríu : (tiếng cổ) chỉ sự bận rộn, bề bộn.
(5) Sơ nguyệt : lúc chập tối, khi mặt trăng mới ló lên ; kình kình : điệp từ mô phỏng tiếng chuông gióng, tác giả vận dụng cả âm lẫn nghĩa.
Làm người có dại mới nên khônChớ dại ngây si(1) chớ có khônKhôn được ích mình, đừng rẻ dại(2)Dại thì giữ phận, chớ tranh khônKhôn mà hiểm độc là khôn dạiDại vốn hiền lành ấy dại khônChớ cậy rằng khôn khinh kẻ dạiGặp thời, dại cũng hoá nên khôn(3).
(Thơ Nôm – bài 94)
(1) Dại ngây si : dại quá độ.
(2) Rẻ dại : khinh rẻ người dại.
(3) Đây là bài thơ độc vận với chỉ một chữ “khôn”.