Soạn tác giả Nam Cao trang 137 SGK Văn 11
Soạn tác giả Nam Cao trang 137 SGK Văn 11
GỢI Ý LÀM BÀI
1. Câu 1 trang 142 SGK Văn 11.
a) Tiểu sử Nam Cao:
Nam Cao, tên khai sinh là Trần Hữu Tri, quê ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân (nay là xã Hoà Hậu, huyện Lí Nhân), tỉnh Hà Nam. Làng này xuất hiện nhiều trong những sáng tác của Nam Cao với cái tên Vũ Đại. Nam Cao sinh ra trong gia đình trung nông, đông con, theo đạo Thiên Chúa. Tuy không thuộc những gia đình nghèo nhất ở làng Đại Hoàng và ông thân sinh Nam Cao có thời kì làm chủ một cửa hàng gỗ ở Nam Định, nhưng gia đình Nam Cao vẫn luôn túng bấn. Trong sô bảy anh em, chỉ Nam Cao là được ăn học tới nơi tới chốn. Gia đình này cũng được mô tả nhiều trong các sáng tác của Nam Cao mà rõ nét hơn cả là trong tiểu thuyết Sống mòn.
Học hết bậc Thành chung, năm 1935, Nam Cao theo người cậu vào Sài Gòn và có ý định ra nước ngoài học tập, nhưng không thành. Sau khoảng hơn ba năm, do đau ốm, ông phải về quê. Từ đó, Nam Cao phải sống vất vưởng, khi làm ông giáo trường tư, khi viết văn, làm gia sư, lúc thì phải về quê sống nhờ vợ.
Nam Cao gia nhập Hội Văn hoá cứu quốc năm 1943, khi hội này vừa được thành lập. Từ đó tới lúc hi sinh (1951), ông một lòng tận tuỵ phục vụ cách mạng và kháng chiến. Năm 1946, Nam Cao có mặt trong đoàn quân Nam tiến vào đến Nam Trung Bộ. Năm 1947, ông lên chiến khu Việt Bắc làm công tác văn nghệ và được kết nạp vào Đáng tại Bắc Cạn. Năm 1950, tham gia chiến dịch Biên Giới,… Nam Cao cùng Nguyễn Huy Tưởng đi công tác khu Ba, tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp vào vùng địch hậu. Ông có ý định thu thập thêm tài liệu để viết cuốn tiểu thuyết dang thai nghén. Nhưng Nam Cao và đoàn công tác bị địch phục kích. Nam Cao hi sinh trong chuyến đi đó.
b) Con người Nam Cao
Nam Cao là con người có bề ngoài lạnh lùng, ít nói nhưng đời sống nội tâm phong phú. Ồng luôn nghiêm khắc đấu tranh với mình để thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ hẹp, vươn tới cuộc sống cao đẹp xứng đáng với danh hiệu con người. Nam Cao thường hổ thẹn với những gì mà ông cảm thấy tầm thường, thấp kém của mình.
Nam Cao là người có tấm lòng đôn hậu, chan chứa tình thương, đặc biệt có sự gắn bó sâu nặng với quê hương và những người nông dân nghèo khổ, bị áp bức, khinh miệt trong xã hội. Vì thế, không ít tác phẩm của Nam Cao viết về người lầm than là những thiên trữ tình đầy sự đồng cảm, xót thương. Ông hay suy nghĩ về nhiều vấn đề trong đời sống để rút ra những nhận xét có tầm triết lí sâu sắc và mới mẻ.
Những đặc điểm trong sáng tác của Nam Cao cũng phản ánh khá đúng con người ông (Ngữ văn 11, tập 1, SGK).
2. Câu 2 trang 142 SGK Văn 11.
a. Nam Cao là một trong số không nhiều các nhà văn trước Cách mạng tự giác ngộ về quan điếm nghệ thuật và có quan điểm nghệ thuật tiến bộ. Mặc dù không có những tác phẩm chính luận chuyên bàn về quan điểm nghệ thuật, nhưng rải rác trong các sáng tác của Nam Cao, ta thấy quan điểm nghệ thuật của ông được thể hiện khá hệ thống, nhất quán và có nhiều điểm tiến bộ so với phần đông các nhà văn cùng thời. Không ít khía cạnh trong quan điểm đó chứng tỏ sự phát triển ờ trình độ cao của tư duy nghệ thuật hiện thực.
Có thế nói, Nam Cao là người phê phán tính chất thoát li tiêu cực của văn học lãng mạn đương thời một cách toàn diện và sâu sắc nhất. Theo ông, đó là thứ nghệ thuật “lừa dối”, âm hưởng chủ đạo của nó toàn là cái “giọng sướt mướt của kẻ thất tình”. Lên án văn học lãng mạn thoát li cũng có nghĩa là Nam Cao lên án quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật, khẳng định văn học hiện thực, khẳng định nghệ thuật vị nhân sinh. Nam Cao yêu cầu nghệ thuật phải gắn bó với đời sống của nhân dân lao động, “nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than” và nhà văn phải “đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời” (Giăng sáng).
Cùng với việc phê phán không khoan nhượng văn học lãng mạn thoát li, Nam Cao còn chỉ rõ hạn chế của những tác phẩm phản ánh hiện thực một cách mờ nhạt, ý nghĩa xã hội non kém. Theo ông, một tác phẩm hiện thực, phải có giá trị phổ quát “vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn”, đặc biệt phải thấm nhuần nội dung nhân đạo cao cả “chứa đựng được một cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn”.
b. Trong số các nhà văn hiện thực trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao là người có ý thức trách nhiệm cao về ngòi bút của mình. Theo ông, nghề văn trước hết phải là một nghề sáng tạo. Nhà văn phải biết “khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có”. Ông châm biếm sâu cay những cây bút thiếu bản lĩnh, a dua chạy theo thị hiếu tầm thường. Để làm được công việc khó khăn ấy, Nam Cao cho rằng nhà văn “phải đọc, phải tìm tòi nhận xét và suy tưởng không biết chán” và phải có lương tâm nghề nghiệp, nhất là không được cẩu thả, “cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”.
Điều đáng lưu ý nhất là Nam Cao luôn đòi hỏi nhà văn phải có tinh thần nhân đạo cao cả. Trong Đời thừa, dẫu nuôi nhiều hoài bão về nghệ thuật, nhưng Hộ vẫn có thể hi sinh nghệ thuật cho cuộc sống. Bài học rút ra từ nhân vật Hộ là: Nhà văn muốn viết cho nhân đạo thì phải sống cho nhân đạo.
Quan điểm nghệ thuật tiến bộ này góp phần quan trọng để Nam Cao có nhiều chuyển biến ngay sau khi tham gia cách mạng. Từ việc thấy rõ trách nhiệm phản ánh hiện thực cuộc sống của nhân dân lao động, giờ đây, Nam Cao khẳng định sứ mệnh của nhà văn lúc đó là phải phục vụ cho cuộc chiến đấu. Đây là một bước tiến vượt bậc trong quan điểm nghệ thuật của Nam Cao. Nó cho thấy sự gặp gỡ tất yếu giữa văn học hiện thực chân chính và vãn học cách mạng.
3. Câu 3 trang 142 SGK Văn 11.
A. Khái quát:
Nam Cao có sáng tác từ năm 1936. Như vậy trước khi Chí Phèo ra đời, nhà văn đã có 5 năm cầm bút. Trong chặng sáng tác đầu có tính chất thí nghiệm này, Nam Cao chịu ảnh hướng của văn học lãng mạn thoát li và đã cho in hàng chục truyện ngắn, một số bài thơ và một vở kịch ngắn, với nhiều bút danh nhưng nhìn chung không mấy thành công. Nhà văn chỉ thực sự khẳng định được tài năng của mình khi truyện ngắn Chí Phèo mang tầm vóc một kiệt tác ra đời, với bút danh Nam Cao (là tên ghép của hai chữ đầu tên huyện (Nam Sang) và tổng (Cao Đà) mà thành).
Trước Cách mạng, Nam Cao đã có hơn 60 tác phẩm được in ra. Ngoài ra ông còn một số bản thảo truyện vừa đã bị nhà xuất bản làm thất lạc như: Cái bát, Cái miếu. Ngày lụt,… Sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tập trung vào hai mảng đề tài chính: Người trí thức nghèo và người nông dân nghèo.
B. Chi tiết
a. Ở mảng để tài người trí thức tiểu tư sản, Nam Cao thường “lấy mình ra làm cái máy kiểm nghiệm” (Nguyễn Minh Châu). Ông lấy bản thân và những bạn bè của mình làm những nguyên mẫu trong hàng loạt các truyện ngắn và tiểu thuyết. Nhân vật chính trong các sáng tác này đều có dạng như là: Những nhà văn nghèo, những viên chức, những anh giáo khổ trường tư,… Họ mang nhiều hoài bão cao đẹp, khát khao được phát triển nhân cách, được đóng góp cho xã hội, được khẳng định trước cuộc đời. Nhưng họ đã bị xã hội bất công và cuộc sống nghèo đói “ghì sát đất”. Những hoài bão và ước mơ cao đẹp của họ bị vùi lấp một cách phũ phàng.
Ở mảng đề tài này, đóng góp nổi bật trước hết của Nam Cao là đã phán ánh một cách chân thực thực trạng buồn thảm, cơ cực của những người trí thức tiểu tư sán nghèo, đồng thời phần nào nhà văn cũng phác hoạ được bức tranh đen tối, u ám của xã hội Việt Nam đang đứng trước bờ vực thẳm của sự khủng hoảng trước Cách mạng.
Song giá trị thực sự không chỉ có thế. Điều quan trọng hơn và giá trị hơn là thông qua những bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản nghèo, Nam Cao kết tội xã hội vô nhân đạo đã bóp nghẹt sự sống của con người, đẩy con người vào tình trạng chết mòn, tàn phá tâm hồn con người. Đồng thời nhà văn thể hiện cuộc đấu tranh kiên trì của những người này trước sự cám dỗ của lối sống ích kí, sự đầu độc của môi trường dung tục, từ đó ca ngợi lẽ sống nhân đạo và tình thương yêu.
b. Ở mảng đề tài người nông dân, Nam Cao cũng thường lấy nguyên mẫu từ những người quen biết, thân thuộc trong cái làng Đại Hoàng lam lũ của ông để xây dựng nên những dì Hảo, lão Hạc, lang Rận, Chí Phèo,…
Qua những sáng tác ở mảng đề tài này, Nam Cao đã phản ánh chân thật cuộc sống tối tăm, cực nhục của người nông dân sau lũy tre. Nhà văn thường quan tâm đến số phận khốn khổ của những người nông dân thấp cổ, bé họng, thường xuyên bị đè nén, áp bức nặng nề nhất. Đấy là những người cố cùng, lép vế, những người phụ nữ bất hạnh lấy phải chồng vũ phu,… Thông qua những số phận của họ, ông nêu lên tình trạng vô cùng bất công ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Đó là, dường như người nông dân càng hiền lành bao nhiêu, càng nhẫn nhục bao nhiêu thì càng bị áp bức, đè nén nặng nề và trắng trợn bấy nhiêu.
Ngoài những nhân vật nói trên, Nam Cao thường viết về những người chí vì đói quá nên đã bị lăng nhục, bị xúc phạm một cách tàn nhẫn, bất công (Một bữa no, Tư cách mõ, Lang Rận,…). Đấy là những người cằn cỗi, u mê, thậm chí dị hình dị dạng, đầy thú tính, có khi gây nên những chuyện nhục nhã, xấu xa. Viết về quá trình tha hoá của những con người này, nhà văn đã có những phát hiện sâu sắc: Xã hội tàn bạo đã huỷ diệt cả thể xác lẫn tâm hồn của những người nông dân lương thiện, đẩy họ vào cuộc sống không lối thoát. Đồng thời, nhà văn cũng khắng định nhân cách và bản chất lương thiện của những con người này ngay cả khi họ dã bị xã hội độc ác cướp mất cả hình hài và tính cách con người.
Ngoài ra, với tư cách là một cây bút hiện thực nghiêm ngặt, Nam Cao cũng không ngần ngại chỉ ra những thói hư, tật xấu của người nông dân, phần do môi trường nghèo đói, phần do chính những con người này gây ra (Đòn chồng, Trẻ con không dược ăn thịt chó,…). Tất cả những điều đó chứng tỏ chiều sâu hiện thực và nhân đạo trong ngòi bút của Nam Cao.
Có thể nói, dù viết về đề tài người nông dân hay người trí thức, vượt lên trên ý nghĩa cụ thể của đề tài, sáng tác của Nam Cao thường chứa đựng những nội dung triết học sâu sắc, có khả năng khái quái những quy luật chung của đời sống như vật chất và ý thức, hoàn cảnh và con người, môi trường và tính cách,… Nam Cao luôn trăn trở, day dứt về vấn đề nhân phẩm, về thái độ khinh trọng đối với con người, luôn day dứt tới mức đau đớn trước tình trạng xã hội vô nhân đạo dã đầy đoạ con người vào trong sự nghèo đói, vùi dập những ước mơ, làm chết mòn đời sống tinh thần và lẽ sống cao đẹp của họ; đồng thời cũng đau đớn vô hạn trước tình trạng con người bị xói mòn về nhân phẩm, thậm chí huỷ diệt mất nhân tính.
4. Câu 4 trang 142 SGK Văn 11.
a. Trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, Nam Cao là một cây bút có phong cách nghệ thuật độc đáo. Nam Cao quan tâm dặc biệt tới đời sống tinh thần của con người, luôn có hứng thú khám phá thế giới nội tâm sâu xa của con người dù viết việc người nông dân hay người trí thức. Nam Cao luôn đề cao tư tưởng, đặc biệt chú ý tới hoạt động bên trong của con người, coi dó là nguyên nhân của những hành động bên ngoài. Với một quan niệm về con người như thế, ngòi bút Nam Cao có khuynh hướng đi sâu vào nội tâm, đi sâu vào thế giới tinh thần của con người. Ông là nhà vân có biệt tài miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật. Ông tỏ ra đặc biệt sắc sảo trong việc phân tích và diễn tả những quá trình tâm lí phức tạp, những hiện tượng lưỡng tính dở say dở tỉnh, dở khóc dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện và ác, giữa hiền lành và dữ tợn, giữa con người với con vật,…
b. Do am hiểu tâm lí nhân vật, Nam Cao cũng là một “nhà độc thoại, đối thoại nội tâm” sâu sắc. Mặt khác cũng do yêu cầu miêu tả tâm lí, miêu tả mạch tự sự của tác phẩm, Nam Cao thường đảo lộn thời gian và không gian, tạo nên những kiểu kết cấu tâm lí vừa phóng túng, linh hoạt lại vừa nhất quán, chặt chẽ.
Trong những sáng tác của Nam Cao, có nhiều cái rất nhỏ nhặt, xoàng xĩnh thế nhưng từ những sự việc quen thuộc, thậm chí tầm thường trong đời sống hàng ngày, tác phẩm của Nam Cao đã đặt ra những vấn đề có ỷ nghĩa xã hội to lớn, thê hiện những triết lí sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ thuật.
Nam Cao là nhà văn có giọng diệu riêng, buồn thương chua chát; dửng dưng lạnh lùng mà đầy thương cảm, đằm thắm yêu thương,…