Thuyết minh giới thiệu một tác giả văn học mà anh (chị) yêu thích

0

Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 14/1/1920. Xuất hiện trên thi đàn, làm kinh ngạc đông đảơ người đọc ngay từ khi mới mười sáu, mười bảy tuổi nhưng suốt trong những năm sống, làm việc và sáng tác hầu như không ngừng, không nghỉ của mình, ngay cả sau lúc đi xa vào ngày 24/6/1989, Chế Lan Viên vẫn tiếp tục làm ngỡ ngàng, kinh ngạc với bạn đọc.

Chế Lan Viên có một khối lượng tác phẩm đồ sộ. Với tác phẩm đầu tay là tập Điêu tàn, Chế Lan Viên nghiễm nhiên trở thành kiện tướng của phong trào Thơ mới. Sau năm 1945, Chế Lan Viên viết Ảnh sáng và phù sa, Hoa ngày thường – Chim báo bão, Hoa trước lăng Người, Hoa trển đá. Với những tập thơ này, Chế Lan Viên đã chuyển ngòi bút sầu đau, điên cuồng, hư vô, siêu hình trong Điêu tàn sang những vần thơ giàu tư tưởng, triết lý sâu sắc, mới mẻ, khoẻ mạnh.

Suốt cấ cuộc đời, Chế Lan Viên đã viết đến hơn mười tập thơ, làm nên một đời thơ vạm vỡ, bề thế. Đó là chưa kể hơn 600 bài thơ trong các tập Di cảo xuất bản sau khi Chế Lan Viên mất mà theo các nhà nghiên cứu văn học, chỉ riêng Di cảo cũng đủ làm nên một tầm vóc thơ ca lớn.

Điều đáng nói là để có thể sống và sáng tác văn học nghệ thuật thì hầu như ai cũng cần phải có được sự tổng hoà của ba yếu tố: trí, tâm, tài đến mức cần thiết. Nhưng với Chế Lan Viên thì các yếu tố này đều quá lớn, quá sắc sảo và nhạy cảm. Điều đó khiến cho thơ Chế Lan Viên phong phú về mặt nội dung. Biên độ cảm xúc của ông rất rộng, đề tài thơ ông viết là muôn mặt của cuộc đời. Có khi ông nghe thấy những biến dộng nhỏ bé của tâm hồn con người trong những tình cảm riêng tư nhưng ông cũng chia sẻ kịp thời những tình cảm rộng của toàn dân tộc. Chế Lan Viên cũng rất phong phú về giọng điệu. Nhà thơ Vũ Quần Phướng, người đã dày công nghiên cứu các tác phẩm của Chế Lan Viên nói về điều này như sau: Có lúc thơ ông thầm thì trò chuyện, nói tiếng thở dài trong một câu thơ ngắn, lúc ông sang sảng hùng biện, thơ âm vang như cáo, như hịch, lúc mát mẻ lạnh lùng trong kiểu thơ ngụ ngôn, lúc bừng bừng giận dữ trong hơi thơ đả kích, khi thâm trầm ung dung như người thoát tục nhìn hoa đại, hoa sen. Cái phong phú ấy trong thơ hiện đại chưa ai bằng Chế Lan Viên.

Chế Lan Viên cũng là người phong phú trong hình thức biểu hiện. Ông là người tích cực bậc nhất trong việc tìm tòi đổi mới dáng vẻ câu thơ và bài thơ thế kỷ XX. Bạn đọc khó có thể tìm được câu thơ nào dễ dãi trong thi phẩm của Chế Lan Viên. Ông hàm súc trong tứ tuyệt và ông còn mở rộng câu thơ để ôm lấy hiện thực. Ông sáng tạo nhiều cách ngắt nhịp, nhiều kiểu qua hàng, nhiều lối buông vần cho phù hợp với cảm xúc nội tâm.

Chế Lan Viân là một tài năng chín sớm. Ông kế thừa tinh hoa của thi ca phương Đông như thơ Đường, thơ Tống rồi thi ca phương Tây như thơ lãng mạn, thơ hiện thực. Ông có ý thức sâu sắc về vai trò nhà thơ trong đời sông hiện thực.

Chế Lan Viên chính luận, Chế Lan Viên triết lý, Chế Lan Viên trữ tình nhưng tất cả đều thống nhất từ nguồn cảm xúc lớn nhất là cảm xúc trách nhiệm với cộng đồng, với dân tộc của đất nước. Con đường thơ của Chế Lan Viên trải qua nhiều biến động, nhiều bước ngoặt với những trăn trở, tìm tòi không ngừng của nhà thơ, thậm chí có một thời gian dài im lặng (1945 – 1958).

Trước Cách mạng tháng Tám, thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng nghĩa “trường thơ loạn”: kinh dị, thần bí, bế tắc của thời Điêu tàn với xương, máu, sọ người, với những cảnh đổ nát, với tháp Chàm. Những tháp Chàm “điêu tàn” là một nguồn cảm hứng lớn đáng chú ý của Chế Lan Viên, qua những phế tích đổ nát và không kém phần kinh dị trong thơ Chế Lan Viên, ta thấy ẩn hiện hình bóng của một vương quốc hùng mạnh thời vàng son, cùng với nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ.
Sau Cách mạng, thơ ông đã đến với cuộc sống nhân dân và đất nước, thấm nhuần ánh sáng của cách mạng, và có những thay đổi rõ rệt. Trong thời kì 1960 – 1975, thơ Chế Lan Viên vươn tới khuynh hướng sử thi hào hùng, chất chính luận, đậm tính thời sự. Sau năm 1975, thơ Chế Lan Viên dần trở về đời sống thế sự và những trăn trở của cái “tôi” trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của đời sống.

Phong cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo, nổi bật nhất là chất suy tưởng triết lí mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa. ông là nhà thơ phong phú bậc nhất trong nền thơ Việt Nam hiện đạị. Thơ ông phong phú về nội dung, biên độ cảm xúc ở ông rất rộng, đề tài thơ ông là muôn mặt cuộc đời. Ông nghe được những biến động nhỏ bé của tâm hồn con người trong những tình cảm riêng tư, rất riêng tư cầm tay em vuốt ve Hồn im… cho tay nghe… ông lại cũng chia sẻ kịp thời những tình cảm rộng lớn của toàn dân tộc khi một đảo vắng Hòn Ngư còn chớp bể, một rặng núi Kỳ Sơn từng lắm lúc mưạ nguồn bị kẻ thù xâm phạm. Ông xao xuyến với tiếng chim vít vịt kêu mưa, với hình con sông cầu hư ảo chảy trong ký ức. Ông thâm trầm triết lý với gió lật lá sen hồ, với tiếng chim tu hú giục mùa vải đỏ và ông ứa nước mắt nghe nhịp sênh tiền mộc mạc:

Chẳng phải đàn tranh hay tỉ bà

Chỉ là nhịp gõ ấy sao mà

Em xoay tà áo thì ta khóc

Khi thoảng ngang lòng tiếng í a

Ông áp đảo, ông .tấn công trong những bài thờ đánh giặc. Ông nghẹn ngào thương mến trước những nỗi niềm sinh ly tử biệt của chiến tranh:

Anh cúi mặt bên đện khêu lại bấc

Nước mắt nhỏ, sau câu hò, em lấy tay che.

Ông phấn chấn nội tâm Nở chùm hoa trên đá ỉ Mùa xuân không chịu lùi. Và ông nhìn thẳng tới cái chung cục của mỗi đời người, cái chung cục chả ưng ý gì mà người ta phải trải, lúc lũ nhặng xanh bay sán đến thi hài. Thơ Chế Lạn Viên giàu triết lý, không phải là thứ triết lý sách vở, nói cho sang, mà là thứ triết lý ông vịn vào để sống, để giải quyết việc đời, để ứng xử với đồng loại, nó là kinh nghiệm sống của đời, nó ấm như hơi thở của ông.

Chế Lan Viên phong phú về giọng điệu: Lúc thì ông thầm thì trò chuyện, gói tiếng thở dài vào trong câu thơ ngắn, lúc thì ông sang sảng hùng biện, thơ âm vang như cáo, như hịch, lúc mát mẻ lạnh lùng kiểu ngụ ngôn, lúc bừng bừng giận dữ trong hơi đả kích, khi lại thâm trầm ung dung như người thoát tục nhìn hoa đại, hoa sen…

Chế Lan Viên cũng rất phong phú hình thức biểu hiện. Ông là người tích cực vào bậc nhất trong việc tìm tòi đổi mới dáng vẻ câu thơ, bài thơ Việt Nam ở thế kỷ XX này. Bạn đọc rất ít gặp câu thơ non lép, bài thơ dễ dãi trong thi phẩm của ông. Ông hàm súc trong tứ tuyệt và ông cạnh tranh ôm chứa hiện thực với văn xuôi trong các bài thơ dài, rộng khổ. ông sáng tạo nhiều cách ngắt nhịp, nhiều kiểu qua hàng, nhiều lối buông vần phù hợp với tiết tấu nội tại của cảm xúc. Trong di cảo có rất nhiều bài đã hoàn chỉnh, nhưng ông còn do dự chưa đăng, nhiều hơn nữa là những bài còn dang dở, dang dở vì nghệ thuật chưa làm ông vừa ý, dù nội dung phác thảo đã mang phẩm chất của thơ rồi. Nhà văn Vũ Thị Thường đã chọn nhặt, in xong ba tập (ngót 600 bài), vằ sẽ còn tiếp tục. Thơ trong Di cảo, theo tôi, là một chặng mới nữa trong đời thơ Chế Lan Viên, cả ở nội dung lẫn hình thức nghệ thuật.

Chế Lan Viên là một tài năng chín sớm nhưng ông lại học hỏi không ngừng. Ông biết cách phát hiện để kế thừa những tinh hoa của thơ ca nhân loại từ Đông sang Tây, từ cổ điển Đường Tông đến lãng mạn, siêu thực hiện đại.

Chế Lan Viên ý thức sâu sắc vai trò nhà thơ trong đời sống xã hội. Khi đất nước có giặc, ông coi thơ như vũ khí và Vóc nhà thợ đứng ngang tầm chiến lũy. Lúc đất nước yên hàn có lần ông tự hỏi: ông đã viết câu thơ đêm ấy cổ vũ 2000 người ra trận, chỉ ba mươi người về và một trong ba mươi người ấy bây giờ ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ:

Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời Tôi ú ớ…

Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay

Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ

Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười

Chế Lan Viên chính luận, Chế Lan Viên triết lý, Chế Lan Viên trữ tình… tất cả đều bắt nguồn từ cảm xúc chân thành ấy, cảm xúc trách nhiệm với cộng đồng.

Ta là ai? Như ngọn gió siêu hình

Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt

Ta vì ai? Khẽ xoay chiều gió bắc

Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh.

Hai câu hỏi

Ông đã trở thành một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những vần thơ Chế Lan Viên đã in dấu trong nền văn thơ Việt Nam như những bút tích của một thời khói lửa, bom đạn – một thời kháng chiến anh dũng đã đi qua.

Leave a comment