Top 10 Phim hay nhất của Song Kang Ho bạn nên xem

0

Song Kang Ho là một diễn viên sở hữu loạt vai diễn để đời và đứng đầu trong những nam diễn viên đắt sô nhất xứ Hàn. Đồng thời là “cây đại thụ” trong giới diễn viên thực lực Hàn Quốc và được mệnh danh là “ông vua phòng vé” bởi tất cả những bộ phim có nam diễn viên này thủ vai chính đều cháy vé và phá kỉ lục người xem. Với cách diễn đầy cảm xúc và mãnh liệt, cùng gương mặt dễ dàng khắc họa Song Kang Ho đã thử sức ở mọi loại phim, từ hiện thực, lịch sử đến trinh thám, giật gân,… Bài viết dưới đây Review.tip.edu.vn xin giới thiệu tới độc giả những bộ phim đã làm nên tên tuổi của Song Kang Ho mà bạn nên xem nhất.

Parasite (2019)

Parasite (2019) là một bộ phim điện ảnh hài kịch đen của Hàn Quốc, được ra mắt công chúng vào năm 2019 do Bong Joon-ho làm đạo diễn. Phim kể câu chuyện về hai gia đình có sự khác biệt rất lớn về thu nhập tài chính hoặc được cho là khoảng cách xã hội giữa người giàu và người nghèo. Dù có thời lượng 2 tiếng 11 phút nhưng đạo diễn Bong Joon-ho đã lồng vào cỡ một tỉ ẩn dụ liên quan tới cả cấu trúc xã hội Hàn Quốc bao gồm các tầng lớp từ giới siêu giàu cho tới dân cùng khổ.

Bộ phim có sự tham gia diễn xuất của dàn diễn viên: Song Kang-ho, Lee Sun-kyun, Cho Yeo-jeong, Choi Woo-sik và Park So-dam. Và đã xuất sắc đoạt giải thưởng Cành cọ vàng khi tham dự Liên hoan phim Cannes 2019 tại Pháp, chính thức trở thành bộ phim Hàn Quốc đầu tiên trong lịch sử nhận giải thưởng này.

Vào tháng 2 năm 2020, bộ phim tiếp tục làm nên lịch sử khi giành tượng vàng Oscar cho hạng mục Phim hay nhất – Best Picture và 3 giải khác tại lễ trao giải Oscar lần thứ 92 được tổ chức tại Mỹ, Thắng 4 trên 6 đề cử Oscar bao gồm giải thưởng danh giá nhất Best Picture, Ký sinh trùng – Parasite đã trở thành tác phẩm ngoại ngữ và là phim châu Á đầu tiên đoạt danh hiệu này.

Điểm IMDb: 8.6
Đểm Tomatometer: 98%

Điểm đánh giá từ khán giả: 90%

Parasite (2019)
Parasite (2019)
Parasite (2019)

The Drug King (2018)

The Drug King (2018) là một bộ phim chính kịch tội phạm Hàn Quốc năm 2018 do Woo Min-ho viết kịch bản và đạo diễn. Phim có sự tham gia của Song Kang-ho trong vai Lee Doo-sam, một tay buôn bán ma túy nhỏ bình thường trở thành trùm ma túy khét tiếng ở Hàn Quốc trong những năm 1970. Phim được phát hành vào ngày 19 tháng 12 năm 2018.

Bộ phim là câu chuyện cuộc đời có thật của Lee Doo-sam (Song Kang-ho), một tay buôn lậu ma túy xây dựng đế chế của mình trong thế giới ngầm tội phạm ở Busan vào những năm 1970. Lee ban đầu là một thành viên của phe Chilsung ở Busan từ tỉnh Hwanghae. Vào đầu những năm 1970, ông ta buôn lậu kim cương và các sản phẩm khác, và cuối cùng mở rộng nó thành ma túy để phân phối trong nước và xuất khẩu sang Nhật Bản, do đó tích lũy được một lượng lớn của cải trong quá trình này.

Điểm IMDb: 6.2

Đểm Tomatometer: 83%

Điểm đánh giá từ khán giả: 62%

The Drug King (2018)
The Drug King (2018)

A Taxi Driver (2017)

A Taxi Driver (2017) là một bộ phim dựa trên sự kiện lịch sử có thật vào những năm 1980, khi phong trào dân chủ nở rộ tại Hàn Quốc. Sự kiện tháng 5 tại Gwangju, khi hàng loạt sinh viên và dân thường nổi dậy chống lại chính quyền độc tài. Câu chuyện về một người tài xế taxi đã chở nhà báo người Đức vào trung tâm của Gwangju để ghi nhận lại những gì diễn ra tại đây và loan tin với thế giới đã được ghi lại trong bộ phim này.

Bộ phim được phát hành vào ngày 2 tháng 8 năm 2017, tại Hàn Quốc. Đã được các nhà phê bình đón nhận rất tích cực và được chọn là tác phẩm “South Korean entry” cho Best Foreign Language Film tại Lễ trao giải Oscar lần thứ 90. Taxi driver không chỉ nổi tiếng vì nó đạt hơn 10 triệu vé trong thời gian ngắn kỉ lục, đánh bại bộ phim bom tấn được công chiếu cùng lúc là Đảo địa ngục, mà hiện còn là phim Hàn Quốc có doanh thu cao thứ mười hai trong lịch sử.

Điểm IMDb: 7.9

Đểm Tomatometer: 96%
Điểm đánh giá từ khán giả: 91%

A Taxi Driver (2017)
A Taxi Driver (2017)
A Taxi Driver (2017)

The Age of Shadows (2016)

The Age of Shadows (2016) được phát hành vào năm 2016 là dự án được thực hiện bởi đạo diễn Kim Jee-Woon. Phim thuộc thể loại Tâm Lý với dàn diễn viên khủng điển hình như Han Ji-Min, Song Kang‑Ho, Gong Yoo, Lee Byung Hyun.

Tác phẩm lấy bối cảnh thập niên 1920, khi bán đảo Triều Tiên còn nằm dưới ách đô hộ của Nhật Bản. Một nhóm người yêu nước quyết tâm giành độc lập cho dân tộc bằng hình thức bạo lực. Một trong những nhiệm vụ khó khăn dành cho họ là phải tìm cách lén đưa thuốc nổ từ Thượng Hải về quê hương.

Phim được lọt vào danh sách “South Korean entry” của Hàn Quốc tại Lễ trao giải Oscar lần thứ 89 và giành giải Hình ảnh đẹp nhất ở hạng mục Phim hành động tại Fantastic Fest 2016 được tổ chức tại Austin, Texas.

Điểm IMDb: 7.1
Đểm Tomatometer: 100%
Điểm đánh giá từ khán giả: 83%

The Age of Shadows (2016)
The Age of Shadows (2016)
The Age of Shadows (2016)

Snowpiercer (2013)

Snowpiercer (2013) là một bộ phim hành động, khoa học viễn tưởng ra mắt năm 2013, dựa trên cuốn tiểu thuyết đồ họa Pháp Le Transperceneige của Jacques Lob, Benjamin Legrand và Jean-Marc Rochette. Phim được đạo diễn bởi Bong Joon-ho. Cũng chính Bong và Kelly Masterson là những người viết kịch bản. Đây là sản phẩm hợp tác của hai nền điện ảnh Hàn Quốc-Séc và cũng là tác phẩm nói tiếng Anh đầu tiên của Bong Joon-ho, với gần 85% lời thoại của phim là tiếng Anh.

Phim có sự tham gia diễn xuất của Chris Evans, Song Kang-ho, Tilda Swinton, Jamie Bell, Octavia Spencer, Go Ah-sung, John Hurt và Ed Harris. Lấy bối cảnh con tàu Snowpiercer chạy trên một đường ray trải dài khắp địa cầu, mang theo những tàn tích cuối cùng của nhân loại sau khi một nỗ lực thay đổi khí hậu vô tình đưa Trái đất quay lại kỉ băng hà. Chris Evans trong vai Curtis Everett, một trong những hành khách khốn cùng ở các toa tàu cuối, người đang lãnh đạo một cuộc nổi dậy chống lại tầng lớp thượng lưu ở các toa tàu phía trên. Quá trình quay phim diễn ra tại Barrandov Studios ở Prague, sử dụng một bộ toa tàu gắn trên gimbal để mô phỏng chuyển động của đoàn tàu.

Sau khi ra mắt quốc tế, tác phẩm nhận được sự hoan nghênh từ giới phê bình, xuất hiện trong nhiều danh sách tốp 10 của các nhà đánh giá phim năm 2014. Những lời khen ngợi chủ yếu dành cho tầm nhìn, phương hướng và cách biểu đạt của bộ phim, đặc biệt là diễn xuất của Evan và Swinton. Với kinh phí 40 triệu đô la Mỹ, đây vẫn là phim Hàn Quốc đắt giá nhất từ trước đến nay.

Điểm IMDb: 7.1
Đểm Tomatometer: 94%
Điểm đánh giá từ khán giả: 72%

Snowpiercer (2013)
Snowpiercer (2013)
Snowpiercer (2013)

The Attorney (2013)

The Attorney (2013) là bộ phim điện ảnh Hàn Quốc về đề tài luật sư phát hành năm 2013. Đây là phim đầu tay của đạo diễn kiêm biên kịch Yang Woo-suk, với doanh thu phòng vé “khủng”, The Attorney lọt vào top 10 phim nội có doanh thu cao nhất xứ sở Kim Chi và có doanh thu cao thứ 2 năm 2013.

Truyện phim lấy bối cảnh biến động chính trị có thật trong xã hội Hàn Quốc ở đầu thập niên 1980, khi Nam Hàn trong giai đoạn gần như rách bươm bởi những cuộc xuống đường biểu tình của sinh viên học sinh nhằm phản đối tình trạng thiếu dân chủ của đất nước dưới thời chính quyền độc tài Chun Doo-hwan. Oan án của cậu học trò trong phim làm cho khán giả nhớ tới “trường hợp Burim”, một cố sự xảy ra năm 1981 khi Cơ quan Pháp Luật Hàn Quốc bắt giữ 22 học sinh, giáo viên và nhân viên văn phòng của một câu lạc bộ sách thuộc ngành khoa học xã hội. Họ bắt giam trái phép và tra tấn các nạn nhân.

Trong số đó, 19 người bị truy tố và bị kết án từ 1- 6 năm tù giam. Nhưng sau đó, họ được thả và các hoạt động của họ được công nhận như một phong trào ủng hộ dân chủ. Vì vậy, The Attorney (2013) được nhiều khán giả Hàn Quốc xem như là bức thư cám ơn của những người bị hại gửi tặng đến cố tổng thống Roh Moo-hyun, người đã tham gia giải cứu cho một nhóm sinh viên bị bắt và tra tấn vào năm 1981.

Điểm IMDb: 7.7
Đểm Tomatometer: 75%
Điểm đánh giá từ khán giả: 87%

The Attorney (2013)
The Attorney (2013)
The Attorney (2013)

The Good, the Bad, the Weird (2008)

The Good, the Bad, the Weird (2008) là bộ phim lọt 10 Top Phim ăn khách nhất lịch sử điện ảnh Hàn Quốc. Phim tái hiện lại Mãn Châu những năm 30 của thế kỷ trước, khi thế giới đang trong cảnh hỗn loạn. Lúc đó ở châu Á, Triều Tiên rơi vào bàn tay của phát xít Nhật. Nhiều người dân Triều Tiên đã tới vùng thảo nguyên hoang dã Manchuria, giáp ranh giữa Mông Cổ và Trung Quốc để lánh nạn. Và để tồn tại trong môi trường đầy khó khăn, một số người trở thành những tên cướp trên lưng ngựa để kiếm sống tại vùng đất hoang sơ cằn cỗi này.

Bộ phim được công chiếu tại Liên hoan phim Cannes 2008 và phát hành hữu hạn tại Mỹ vào 23 tháng 4 năm 2010, sau đó được chính phủ Đại Hàn Dân quốc liệt vào 100 tác phẩm điện ảnh phải lưu trữ cấp quốc gia vì đặc tính văn hóa – chính trị.

Điểm IMDb: 7.3
Đểm Tomatometer: 82%
Điểm đánh giá từ khán giả: 83%

The Good, the Bad, the Weird (2008)
The Good, the Bad, the Weird (2008)
The Good, the Bad, the Weird (2008)

Secret Sunshine (2007)

Secret Sunshine (2007) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc năm 2007 củađạo diễn Lee Chang-dong. Kịch bản phim dựa trên tiểu thuyết ngắn “The Story of a Bug” của Lee Cheong-jun, tập trung vào một người phụ nữ khi cô ấy vật lộn với những câu hỏi đau buồn, điên rồ và niềm tin. Tựa tiếng Hàn Miryang (hay Milyang) được đặt theo tên của thành phố từng là bối cảnh và địa điểm quay phim của bộ phim, trong đó “Secret Sunshine” là bản dịch theo nghĩa đen.

Tác phẩm quy tụ dàn diễn viên triển vọng: Jeon Do-yeon, Song Kang-ho, Kim Young-jae, Lee Joong-ok,…Bên cạnh nữ chính Jeon Do-yeon trong vai Lee Shin-ae đã xuất sắc đoạt giải Prix d’interprétation féminine (Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất) tại Liên hoan phim Cannes 2007, thì Song Kang-ho trong vai Kim Jong-chan (người thợ cơ khí) cũng vinh dự thắng giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất do Liên hoan phim quốc tế Palm Springs.

Bộ phim cũng giành được giải Phim hay nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Châu Á và Giải thưởng Màn ảnh Châu Á Thái Bình Dương. Bộ phim đã bán được 1.710.364 vé trên toàn quốc chỉ tính riêng tại Hàn Quốc.

Điểm IMDb: 7.5

Đểm Tomatometer: 94%

Điểm đánh giá từ khán giả: 72%

Secret Sunshine (2007)
Secret Sunshine (2007)
Secret Sunshine (2007)

The Host (2006)

The Host (2006) được sản xuất bởi đạo diễn lừng danh Bong Joon Ho cùng sự tham gia diễn xuất của các diễn viên Song Kang Ho, Byun Hee Bong, Park Hae Il, Bae Doona và Go Ah Sung. Phim kể về cuộc chiến đấu của gia đình Hee Bong cùng những người hàng xóm chống lại một con quái vật ở bờ sông Hàn khi nó đã bắt mất cô cháu gái Hyun Seo của ông. Ông sẽ phải cùng gia đình làm sao để vừa chạy chốn cảnh sát vừa phải chiến đấu với con quái vật để cứu sống cô cháu gái thân yêu của mình.

Điều bộ phim muốn nhắn gửi tới người xem chính là tính nhân văn trong tình yêu thương con người. Đó cũng là lý do đưa The Host tạo nên những kỷ lục phòng vé trong lịch sử điện ảnh xứ Kim chi. Luôn nằm trong Top 10 phim ăn khách nhất lịch sử xứ Hàn. Không những thế The Host còn đứng vị trí 109 trong những phim châu Á xuất sắc nhất mọi thời đại do ban giám khảo LHP Quốc tế Busan bình chọn.

Nam diễn viên Song Kang Ho đã xuất sắc vào vai Gang-du – nhân vật chính của tác phẩm với tất cả diễn xuất chân thực nhất và vinh dự nhận giải Nam diễn viên xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Châu Á lần thứ nhất năm 2007 nhờ vai diễn ấn tượng này.

Điểm IMDb: 7.1

Đểm Tomatometer: 93%

Điểm đánh giá từ khán giả: 72%

The Host (2006)
The Host (2006)
The Host (2006)

Memories of Murder (2003)

Memories of Murder (2003) là một bộ phim hình sự, giật gân của điện ảnh Hàn Quốc ra mắt năm 2003, được đạo diễn bởi Bong Joon-ho. Phim có sự tham gia diễn xuất của hai ngôi sao điện ảnh Song Kang-ho và Kim Sang-kyung. Tác phẩm lấy cảm hứng từ câu chuyện có thật về vụ giết người hàng loạt đầu tiên được ghi nhận ở Đại Hàn dân quốc từ năm 1986 đến năm 1991 tại thành phố Hwaseong, tỉnh Gyeonggi.

Khi ra mắt, phim ngay lập tức được đón nhận nồng nhiệt từ khán giả và giới phê bình. Memories of Murder mang về nhiều giải thưởng lớn cho đạo diễn Bong Joon-ho và nam diễn viên Song Kang-ho. Bộ phim được đem đi trình chiếu tại nhiều liên hoan phim quốc tế danh giá và được các nhà làm phim, phê bình điện ảnh thế giới đánh giá cao. Đạo diễn Quentin Tarantino chọn Hồi ức kẻ sát nhân là một trong 20 bộ phim yêu thích của ông.

Điểm IMDb: 8.1

Đểm Tomatometer: 95%

Điểm đánh giá từ khán giả: 94%

Memories of Murder (2003)
Memories of Murder (2003)
Memories of Murder (2003)

Leave a comment