Top 18 Phong tục tập quán độc đáo nhất của các dân tộc Việt Nam
Contents
- 1 Tục bát canh rêu đá của người Thái
- 2 Lễ hội Xíp xí (Tết xíp xí) của người Thái, người Kháng
- 3 “Củi hứa hôn” và phong tục cưới hỏi của người Giẻ Triêng
- 4 Lễ ăn cơm mới của người Xá Phó
- 5 Tín ngưỡng phồn thực quanh vùng Đền Hùng
- 6 Tục thổi khèn tìm bạn tình ở chợ tình Sa Pa
- 7 Tục bó vỏ ống cơm lam của Tây Bắc, Đông Bắc Việt Nam
- 8 Tục ra gà – Một nét văn hóa ở Chu Hóa
- 9 Tục lệ uống rượu cần
- 10 Tục trao vòng cầu hôn của người Ê đê
- 11 Tục bắt vợ của người Mông
- 12 Tục đi ăn trộm lấy may của người Lô Lô
- 13 Tục “bắt chồng” của người Chu Ru, Cơ Ho,…
- 14 Tục ngủ duông của người Cơ tu
- 15 Tục nhảy lửa của người Pà Thẻn
- 16 Tục xăm cằm của người Mảng
- 17 Tục khóc trâu của người Cơ tu
Phong tục của các dân tộc thiểu số Việt Nam là cả một đề tài vô tận. Cả 54 dân tộc có biết bao nhiêu là truyền thống, văn hoá rất đáng được biết đến. Những vẻ đẹp trong những bộ trang phục, các loại đồ uống, thức ăn, cách thức thờ cúng, cách tổ chức ngày sinh nhật, những quy củ nề nếp trong ma chạy, cưới hỏi… là những thứ mang đậm ý nghĩa văn hoá truyền thống. Hãy theo chân Review.tip.edu.vn để tìm hiểu những phong tục tập quán này nhé!
Tục bát canh rêu đá của người Thái
Rêu đá là một món ăn đặc sản của người Thái ở miền núi Tây Bắc, Việt Nam. Đối với người Thái đây là món ăn không thể thiếu trên mâm cơm tiếp đãi khách quý cùng với măng chua, thịt gác bếp và cũng là món ăn không thể thiếu trong những ngày lễ của người dân ở đây. Thời điểm thường mọc của cây rêu đá là lúc chớm thu khoảng vào tháng ba âm lịch và chỉ được sử dụng chế biến món ăn trong vòng 2 đến 3 ngày vì rêu đá rất nhanh hỏng.
Canh rêu đá được chế biến như sau: rêu đá sau khi dùng chày đập nát và loại bỏ hết tạp chất sẽ cho vào nước luộc gà hoặc canh xương, khi ăn bạn sẽ thấy rất bùi và ngậy. Rêu đá nướng hay nộm rêu đá… cũng đều là những món rất thơm ngon, đậm đà bản sắc dân tộc Thái.
Lễ hội Xíp xí (Tết xíp xí) của người Thái, người Kháng
Lễ hội Xíp xí của người Thái, người Kháng tại vùng Tây Bắc được tổ chức vào ngày 14 tháng 7 âm lịch hằng năm là một phong tục giống như ngày rằm tháng 7 của người Kinh. Lễ hội này được tổ chức với mục đích thể hiện tình yêu quê hương, lòng biết ơn với người đã khai phá tạo mường, lập bản. Đồng thời, việc tổ chức lễ hội này là một hành động đẹp đẽ của người Thái, người Kháng nhằm giữ gìn bản sắc đặc trưng của dân tộc.
Vịt là lễ vật gần như quan trọng nhất trong lễ hội Xíp Xí này, bởi người Thái và người Kháng quan niệm rằng loài vịt gắn liền với đồng ruộng, sống suối, đời sống của những người làm nông; cúng thịt vịt là để vịt ăn hết sâu bọ hại lúa và mang những điều xui xẻo trôi tuột theo dòng chảy của sông suối.
Vào ngày Tết này, người người nhà nhà sẽ đến thăm nhau, chúc nhau những lời chúc tốt đẹp bằng một thái độ niềm nở, hiếu khách. Phần hội của ngày Tết này có đa dạng các hoạt động cho người dân cùng vui chơi, như: hát chúc mừng, hát dạy làm người, hát bè trên sông, hát trao duyên, hát lúc ăn uống, lúc thăm hỏi nhau,…
Hãy thử một lần đến Tây Bắc vào dịp tết Xíp Xí, bạn sẽ cảm nhận được sự ấm áp, những nét đặc sắc, độc đáo, những giá trị tinh hoa còn được lưu giữ đến tận ngày nay trong các bản làng của người Thái, người Kháng.
“Củi hứa hôn” và phong tục cưới hỏi của người Giẻ Triêng
Những cô gái Giẻ Triêng khi đến tuổi cập kê, nếu được một chàng trai mà mình ưng ý cầu hôn và muốn lấy người đó làm chồng thì thường lên rừng tìm những cây gỗ tốt đốn bằng nhau, phơi khô và cõng về nhà xếp ngay ngắn ở đầu nhà, hoặc trước sân và được che chắn cẩn thận để chuẩn bị cho “ngày lành tháng tốt” cõng đến nhà trai. Những bó củi đó được gọi là củi hứa hôn của người Giẻ Triêng.
Không chỉ cõng củi cho gia đình nhà chồng mà còn mang cho cả anh chồng, chị ruột của chồng đã xây dựng gia đình và ở riêng. Mang đến mỗi gia đình như vậy khoảng 20 đến 30 bó, còn nhà trai thường làm thịt 60 đến 70 con chim, con chuột để tiếp đãi khi nhà gái cõng củi đến nhà mình. Ngoài ra nhà trai còn tặng quần áo cho những người cõng củi đến để thay lời cảm ơn. Sau hôm cõng củi và lễ mời cơm ấy, họ hàng hai bên mới chính thức trở hành “sui gia”, tiếp tục đi lại thăm hỏi nhau theo phong tục của người Việt Nam.
Lễ ăn cơm mới của người Xá Phó
Lễ ăn cơm mới hay còn gọi là Tết cơm mới của người Xá Phó cũng diễn ra trong 3 ngày chính như trong ngày Tết cổ truyền của cả nước:
- Ngày đầu tiên: người lớn tuổi nhất trong nhà phải dựng một ngôi sàn nhỏ trên nương, bày một hòn đá, ba chén rượu, ba đôi đũa, một quả trứng gà luộc, ba sợi chỉ trắng và một nắm cơm rồi khấn thần lúa. Sau đó một mình đi gặt một vài cụm lúa mới để đem về cúng tổ tiên và trước khi về người gặt sẽ cắm một cái ta leo để cấm người lạ.
- Ngày thứ 2: không còn là một người đi gặt nữa mà là cả hai vợ chồng chủ nhà cùng ra đồng cắt lúa nhưng không được nói với nhau câu gì và mỗi người sẽ gặt đủ 15 bó lúa về để cúng.
- Ngày thứ 3: cả nhà cùng nhau đi gặt nhưng cũng trong sự im lặng. Chỉ khi lúa gặt xong chủ nhà rút ta leo lên thì mọi người mới được nói chuyện thoải mái với nhau.
Sau 3 ngày lễ, chính chủ nhà sẽ làm cơm tiếp đãi mọi người, dân làng sẽ đến ăn cơm mới của gia đình. Lúc này lễ hội ăn cơm mới coi như là kết thúc.
Tín ngưỡng phồn thực quanh vùng Đền Hùng
Hàng năm vào xuân thu nhị kỳ, các làng xung quanh đền Hùng đều mở hội với mục đích là cầu mong mùa màng, con người, con của được sinh sôi nảy nở cho đông đàn dài lũ, ngô lúa đầy cót đầy bồ. Lễ hội đó chính là phồn thực – là tín ngưỡng của các cộng đồng trồng lúc nước.
Để giải thích một cách đơn giản, dễ hiểu thì ‘phồn thực’ chính là từ nói về sự sự sinh trưởng, sinh sôi nảy nở. Mà vật tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở chính là ‘nõ nường’. ‘Nõn’ chỉ dương vật của người đàn ông và ‘nường’ chỉ âm hộ của người phụ nữ. Do vậy, quanh đền Hùng có nhiều làng thờ sinh thực khí – biểu tượng chung của tín ngưỡng phồn thực.
Tục thổi khèn tìm bạn tình ở chợ tình Sa Pa
Phần lớn các dân tộc như Mông, Tày, Giáy,… đều cư trú tại Sa Pa và sống dọc theo thung lũng Mường Hoa, nơi mà con sông Mường Hoa được bắt nguồn từ những con suối nhỏ từ đỉnh núi Phan-xi-păng. Phiên chợ tình này thường diễn ra vào Chủ Nhật mỗi tuần và nằm ở vị trí khá xa trung tâm thị trấn. Lúc trước con đường dẫn đến phiên chợ này khá hiểm trở, chỉ dành cho người đi bộ và gia súc. Vì vậy, để đến được chợ bằng đường mòn thì phải mất đến tận nửa ngày. Những người đi du lịch hay người sống ở trung tâm thị trấn nếu muốn tham quan chợ tình đều phải bắt đầu đi từ ngày hôm trước (tức ngày thứ bảy).
Đêm thứ bảy đến rạng sáng Chủ Nhật, nơi phiên chợ thường rất ồn ào và náo nhiệt bởi có sự góp vui của những người già đi dạo, tán chuyện cùng nhau và lớp trẻ vui chơi cùng nhau, tạo nên cơ hội để hai con người có thể tiếp xúc, làm quen với nhau. Điểm đặc biệt là người ở đây thổ lộ tình cảm của mình thông qua tiếng khèn, tiếng sáo của họ.
Tuy nhiên, theo thời gian, bởi vì sự đổi mới không ngừng nghỉ của xã hội và chợ tình đã mất đi vẻ đẹp vốn có của nó, không còn không khí trong trẻo, truyền thống như ngày xưa.
Nhưng không vì thế mà chợ tình Sa Pa không còn là một điểm đáng đến. Tuy mất đi vẻ đẹp xưa cũ nhưng chợ tình của ngày nay cũng còn rất đậm chất Sa Pa. Nếu có dịp đi du lịch Sa Pa vào những ngày cuối tuần thì bạn nên đi chợ tình một lần. Chợ tình đã thu hút rất nhiều khách du lịch với những món đồ thổ cẩm rất đẹp được bày bán. Hơn nữa vào những ngày này bạn sẽ được nghe tiếng khèn rất hay lay động lòng người của những chàng trai đã đến tuổi cập kê dùng tiếng khèn của mình để tìm bạn gái.
Và đôi khi người dân Sa Pa cũng dùng tiếng khèn để giải trí sau những ngày làm việc vất vả. Tiếng khèn Sa Pa là một nét đẹp văn hóa của người H’mông và cần được trân trọng.
Tục bó vỏ ống cơm lam của Tây Bắc, Đông Bắc Việt Nam
Cơm lam là loại cơm có nguyên liệu chủ yếu là gạo (thường là gạo nếp). Tất cả các nguyên liệu được bỏ vào ống tre, ống giang hoặc ống nứa rồi được nướng chín trên lửa. Cơm lam có vị thơm đậm, dẻo và ngọt. Đây là một món ăn đặc trưng của các dân tộc vùng Tây Bắc và Đông Bắc Việt Nam.
Cơm lam thoạt nhìn bề ngoài thì chỉ đơn giản là cơm được đặt trong ống tre, nứa. Nhưng để nói đến quá trình làm ra một ống cơm lam thì lại không hề đơn giản chút nào. Công thức, nguyên liệu tuy ít, không đòi hòi quá nhiều thứ nhưng bước chọn lựa nguyên liệu, canh thời gian lại đòi hỏi sự khéo léo của người nấu:
- Chọn ống tre, nứa tươi, không quá non hoặc quá già, thích hợp nhất là từ tháng 10 đến tháng 1. Ống tre, nứa còn tươi, đem về chặt chia ra mỗi đốt thành một ống lam.
- Chọn gạo nếp. Đây là khâu rất quan trọng vì nó quyết định độ dẻo độ ngon của cơm lam. Muốn cơm lam ngon phải chọn gạo nương mới gặt và phải đúng loại gạo nương có hạt to, mẩy, trắng và có mùi thơm.
- Vo gạo cho thật sạch rồi ngâm nước khoảng 5 đến 6 tiếng, vớt ra để ráo nước.
- Đổ gạo vào ống nứa, đổ nước vào ống cho ngập gạo. Không nên đổ gạo đầy ống mà phải để cách miệng một ít khi gạo chín sẽ nở ra kín miệng ống.
- Lấy lá chuối hoặc lá dong đậy kín miệng ống rồi cho vào bếp lửa nướng. Khi nướng phải xoay ống nứa liên tục, không cho ống lam quá cháy và để hạt gạo chín đều. Đến khi có hơi nước bốc ra từ miệng ống và có mùi thơm của cơm tức là cơm lam đã chín.
- Khi cơm chín đem chẻ lớp vỏ bên ngoài để lại lớp lạt mỏng, khi ăn mới bóc vỏ. Cơm lam có thể chấm với muối vừng hoặc nam phrik (nước chấm pha loãng có vị cay của ớt, là loại nước chấm kiểu Thái), hai loại nước chấm này sẽ góp phần tăng thêm độ thơm ngon của cơm lam.
Những người con gái mới sinh xong đang ở cữ khi ăn cơm lam xong không được vứt ống đi mà bó vỏ ống lại cùng với nhau của đứa trẻ với hi vọng đứa trẻ sinh ra ở trần gian sẽ được bảo vệ khỏe mạnh và khi chết đi sẽ được đưa lên thiên đàng hưởng cuộc sống tươi đẹp
Tục ra gà – Một nét văn hóa ở Chu Hóa
Tục ra gà là tập tục ở xã Chu Hóa, Lâm Thao, Phú Thọ. Đây là tập tục đã có từ thời phong kiến, được thực hiện vào Tết âm lịch hằng năm dành cho những bé trai sẽ được sinh ra trong năm đó. Sau khi hoà bình lập lại, tục ra gà bị quên lãng. Nhưng từ khoảng 20 năm trở về đây thì tập tục này đã dần được hồi sinh và lại trở thành một trong những tập tục đặc trưng của con người ở Phú Thọ mỗi đầu năm mới.
Tục ra gà được làng Thượng và làng Hạ duy trì và bảo tồn, được thực hiện vào mùng 5 Tết. Gia đình nào có con trai (gọi là Đinh) sẽ chọn một con gà trống tầm 3-4kg (không được chọn gà trống thiến) đem nhốt vào lồng rồi cho ặn ngày 3 bữa với cơm nóng trộn cám loại 1. Đến đúng mùng 5 Tết, gia chủ sẽ bắt gà ra và mổ, thổi xôi rồi làm lễ gánh ra đình làng. Lễ cúng tại đình bắt đầu từ 1 giờ sáng, một cụ già hoặc một người lớn tuổi nhất trong mỗi gia đình sẽ đứng ra làm các bước cúng lễ. Lễ được cúng xong thì vừa vặn lúc trời sáng, lúc bấy giờ, mọi người sẽ tổ chức thi xem con gà của nhà nào đẹp mắt và to chắc nhất. Bởi người dân ở đây tin rằng con gà cúng càng khoẻ mạnh, to chắc thì bé trai khi được sinh ra sẽ có sức khoẻ càng dẻo dai. Cuối cùng, dân làng cùng nhau tụ tập lại hưởng lộc ngay tại đình.
Ngày nay, không chỉ người ở hai làng Thượng và làng Hạ mới được tổ chức lễ ra gà, mà ngay cả người ở nơi khác, bất kì đâu trên đất nước đều có thể làm lễ này để đón chào thành viên mới chào đời.
Tục ra gà ở Phú Thọ mang đậm tính tín ngưỡng thờ Phật tại đình làng của người Việt Cổ. Bằng cách thực hiện tập tục này, dường như con người lúc vừa được sinh ra đã gắn liền với truyền thống, phong tục của dân tộc, của quê hương. Đây không chỉ là một nét đẹp truyền thống của một làng quê mà còn là một trong những tập tục đậm bản sắc của một vùng cần được bảo tồn và duy trì.
Tục lệ uống rượu cần
Tục uống rượu cần là một loại đồ uống phổ biến và bất biến của những người dân bản địa vùng Tây Nguyên. Uống rượu cần từ lâu đã trở thành một phần trong phong tục, tập quán của người dân nơi đây. Rượu cần được coi là loại rượu quý, chỉ được dùng vào những ngày lễ tế thần linh, hội làng hay để đãi khách.
Vào những ngày lễ hội, rượu được mang ra để thưởng thức bằng cách đặt vào trong bình nhiều vòi hút nhỏ. Mọi người ngồi theo vòng và lần lượt từng người uống một. Khi rượu trong bình lớn vơi đi sẽ được đổ thêm nước vào. Vì vậy khi uống những ngụm rượu cần đầu tiên, ta cảm thấy vị nồng mạnh mẽ hơn là những ngụm rượu lúc sau.
Rượu cần là một thứ rượu ngọt và thơm, không khiến người ta say mà lại khơi lên nỗi nhớ. Nếu có dịp thưởng thức loại rượu này một lần, có lẽ bạn sẽ không thể quên được hương vị của nó.
Tục trao vòng cầu hôn của người Ê đê
Trai gái Ê Đê khi đã yêu nhau, muốn nên duyên vợ chồng liền báo cho gia đình biết để sắp xếp lễ đính hôn. Gia đình bên gái nhờ ông đăm đai (ông cậu) sang nhà trai đặt vấn đề xin cưới, hẹn ngày gặp và chuẩn bị trao vòng (trôk kôông). Đến ngày hẹn, họ hàng nhà gái đến nhà trai làm lễ. Hai già làng có uy tín đại diện hai bên bàn bạc. Mỗi bên đại diện đặt trên chiếu một cái vòng bạc. Khi hoàn toàn đồng ý, họ cầm vòng lên trao cho đôi nam nữ. Chàng trai và cô gái yêu nhau mỗi người đeo một cái vòng ấy. Và sau là đến việc tổ chức lễ cưới.
Trường hợp chàng trai bội ước, không làm lễ cưới, thì anh ta phải trả cho cô gái một khoản phạt bằng hiện vật, và làm cho cô gái một lễ hiến sinh (một con lợn).
Tục bắt vợ của người Mông
Ở miền Tây Nghệ An, tục bắt vợ vẫn được đồng bào ở đây lưu giữ như một nét văn hóa độc đáo của dân tộc mình. Đối với người Mông xứ Nghệ, bắt vợ là nâng cao giá trị của người phụ nữ.
Tục bắt vợ của người Mông có tự bao giờ, chẳng ai còn nhớ nữa. Chỉ biết rằng, đến tuổi cập kê, trai gái hò hẹn trên nương, trên những sườn núi 4 mùa bung nở đủ các loại hoa rừng. Mùa xuân là mùa hò hẹn, khi tình yêu đủ chín, người Mông sẽ làm lễ cưới. Nhưng trước khi lễ cưới chính thức diễn ra, các cặp đôi người Mông sẽ phải trải qua một “nghi lễ” hết sức đặc biệt: các chàng trai sẽ tìm cách bắt và đưa cô gái mình thương về nhà.
Đối với người Mông, tục bắt vợ còn là cách để các chàng trai thể hiện bản lĩnh và trí tuệ của mình. Khi chàng trai yêu cô gái và được cô gái đáp lại tình cảm, việc tiến tới hôn nhân là chuyện được cả hai bàn tới. Tuy nhiên, việc “bắt vợ” sẽ được chàng trai giấu kín, âm thầm lên kế hoạch thực hiện cùng với sự hỗ trợ của các bạn mình.
Việc kéo vợ về cũng phải rất khéo léo để chân cô gái không chạm đất, không có lực giằng co, không đánh trả được, miệng không cắn lại được mà không gây thương tích cho cô gái. Chàng trai sau khi bắt vợ về sẽ giữ vợ trong nhà ba ngày rồi mới đến thông báo chính thức cho nhà gái rằng con gái họ đã là vợ chàng trai. Theo quan niệm, đám bắt nào càng nhiều bạn bè tham gia giúp, kéo càng quyết liệt, thì đôi vợ chồng đó càng hạnh phúc và sống lâu, càng đông con, nhiều của…
Nhưng từ lâu, tục lệ này đã bị biến tướng thành hủ tục. Ban đầu, bản chất của tục lệ là dành cho những đôi nam nữ yêu nhau mà trong đó, người con trai tha thiết yêu thương và muốn cưới người con gái về làm vợ mình. Và trong quá trình “bắt vợ” cũng không được dùng vũ lực hay áp bức cô gái. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, tục bắt vợ không còn được thực hiện dựa trên bản chất đó nữa. Nó đã trở thành hủ tục cũng bởi vì chịu sự ảnh hưởng từ tục làm nương – nguời phụ nữ sau khi được cưới về nhà chồng thì thường trở thành lao động chính. Vì muốn con mình có thêm kẻ hầu người hạ, muốn con mình ngơi tay, không phải làm việc mà nhiều bậc cha mẹ trong các gia đình dân tộc Mông bất chấp con mình chưa đủ tuổi trưởng thành đã vội vàng đi “bắt vợ” giúp con, mà lại là bằng cách sử dụng vũ lực, ép buộc. Dù cho cô gái có không cam tâm đến thế nào thì cũng không thể quay trở về nhà được nữa bởi người Mông đã có một tục lệ rằng con gái mà đã ở lại trong nhà con trai một đêm rồi thì vĩnh viễn không được quay trở về nhà cha mẹ đẻ. Nếu dựa theo pháp luật hiện nay để định nghĩa thì tục bắt vợ chính là hành vi cưỡng ép kết hôn và bắt giữ người trái pháp luật. Hiển nhiên, việc này cần được xử lí theo quy định của pháp luật.
Tục đi ăn trộm lấy may của người Lô Lô
Đi ăn trộm lấy may trong đêm giao thừa là tục lệ khá kỳ lạ của người dân tộc Lô Lô huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang.
Người Lô Lô tin rằng, ở thời điểm chuyển giao từ năm cũ sang năm mới, nếu ai đó mang về được một cái gì đó thì gia đình sẽ gặp nhiều điều tốt lành, ăn nên làm ra. Chính vì thế, việc ăn trộm trong đêm giao thừa được người Lô Lô coi là đi lấy may. Một điều thú vị là khi đi… lấy trộm vào đêm giao thừa, người Lô Lô đi đúng nghĩa “ăn trộm”, lặng lẽ, không rủ nhau, không để chủ nhà bắt được. Và đã trộm là phải trộm “tận gốc”, như nhổ tỏi thì không nên để bị đứt.
Tuy nhiên, tục ăn trộm lấy may này bản chất không đáng bài trừ như cái tên “ăn trộm”. Người Lô Lô khi đi ăn trộm lấy may không lấy nhiều, không lấy đồ có giá trị mà chỉ lấy những thứ như hành, tỏi, rau,…
Trong đêm giao thừa ở các bản làng của người Lô Lô thì nhà nhà “ăn trộm”, người người là “kẻ trộm”, mặc dù là ăn trộm, song chẳng pháp luật nào can thiệp đến và nó đã trở thành một phong tục đón Tết không thể thiếu của người Lô Lô.
Tục “bắt chồng” của người Chu Ru, Cơ Ho,…
Mùa xuân, các dân tộc Chu Ru, Cơ Ho, Cil , Giẻ Triêng….ở Tây Nguyên vào mùa lễ hội “bắt chồng“. Tục bắt chồng của người Tây Nguyên có nét tương tự với tục cướp vợ của đồng bào miền núi phía Bắc, chỉ có điều ở đây ngược lại, người phụ nữ đi “bắt chồng” chứ không phải là người đàn ông đi “bắt vợ”. Củi là một trong những lễ vật “bắt chồng”của người Tây Nguyên.
Khi Tết Nguyên Đán đến, đồng bào các dân tộc Chu Ru, Cil, Cơ Ho… ở Tây Nguyên vào mùa lễ hội bắt chồng. Lễ bắt chồng phải diễn ra ban đêm. Khi thích một chàng trai nào đó, cô gái về thông báo cho gia đình và dòng họ biết. Gia đình sẽ đến nhà trai hỏi dạm. Nếu cả hai dòng họ đồng ý, cô gái sẽ đến đeo nhẫn vào tay người con trai vào một đêm đẹp trời. Trường hợp người con trai không thích có thể trả lại nhưng đến 7 ngày sau, cô gái lại chọn một đêm đẹp trời đến đeo nhẫn cho chàng trai và cứ thế lặp đi lặp lại cho đến khi chàng trai chấp nhận.
Trước khi cưới một ngày, buôn làng tổ chức một đêm hội gọi là “Đêm hội bắt chồng”. Trong đêm hội này, chàng trai và cô gái phải đọc một số câu luật tục riêng của đồng bào mình, có một số câu luật độc đáo như: “Tìm vợ, tìm chồng phải hỏi mẹ cha; ăn ruộng, ăn rẫy phải hỏi tai con trâu, con bò; làm bẫy phải hỏi thần núi; về với vợ như về với nước…”. Ngày cưới chàng trai và cô gái rút nhẫn ra, hôn nhẫn và đeo lại cho nhau. Sau lễ cưới 7 ngày, cô gái tháo nhẫn đưa mẹ chồng cất giữ và ngược lại nhẫn chàng trai do mẹ cô gái cất giữ.
Các dân tộc thực hiện tập tục này đa phần đều là các dân tộc theo chế độ mẫu hệ. Cho nên, sau khi người đàn ông được “bắt” về nhà vợ sẽ không có quyền hành gì trong gia đình.
Tục ngủ duông của người Cơ tu
Ở người Cơ Tu còn tồn tại một phong tục mà chỉ ở dân tộc này mới có, đó là tục ngủ duông (lướt zướng). Tục ngủ duông là một thông điệp gửi gắm những mối tình trai gái Cơ Tu nên vợ nên chồng để hôm nay nó vẫn còn trường tồn mãi với thời gian.
Nhà ngủ duông được làm ở nương rẫy hoặc ở bìa rừng, gọi là nhà nhưng thực chất đây là một chòi được làm bằng các vật liệu tạm bằng cây lá. Sự tồn tại của ngôi nhà này cả làng đều biết và được người Cơ Tu gọi là nhà ngủ duông.
Tuỳ ở mỗi đôi nam nữ Cơ Tu mà ngủ duông có thể kéo dài từ 3 đến 5 đêm hoặc hơn thế nữa để họ tự do tìm hiểu mà không phải lén lút, thầm kín… Trước khi cưới được người mà mình thực sự ưng ý, không thiếu những người con trai và thậm chí là con gái đã từng ngủ duông với không ít người.
Tuy đôi nam nữ có quyền tự do tìm hiểu nhưng luật tục Cơ tu cũng quy định rất rõ và rất nghiêm khắc xử lý những trường hợp quan hệ tình dục bừa bãi hoặc có thai trước khi cưới. Nếu trường hợp này xảy ra, tuỳ ở mức độ vi phạm, thường thì chàng trai bị phạt rất nặng, làng bắt người con trai đó phải giết heo có khi là trâu, bò mang từng phần đến từng gia đình trong làng để tự thú tội và chia cho cả làng cùng ăn. Đôi khi phải đền bù cho nhà gái nào là ché, chiêng, đồ trang sức quý… hoặc phải chịu nợ truyền kiếp từ đời này sang đời khác và đôi khi bị cộng đồng ruồng bỏ không ai tiếp xúc. Còn đối với cô gái mang thai trước khi cưới sẽ bị đuổi ra khỏi bản làng, phải sống trong rừng sâu và không được giao tiếp hay tiếp xúc với ai. Hình phạt nặng nề này đã có từ xa xưa, nó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người Cơ Tu. Vì thế, nam nữ Cơ Tu mỗi khi thực hiện tục ngủ duông đều biết giữ chừng mực, tôn trọng lẫn nhau, giữ vững giá trị của bản thân và tuân theo những giá trị đạo đức của dân tộc mình.
Tục nhảy lửa của người Pà Thẻn
Lễ hội nhảy lửa hay tục nhảy lửa của người Pà Thẻn ở Hà Giang là một hoạt động văn hoá mang tính tâm linh, với mục đích là thể hiện sức mạnh cùng ý chí phi thường, dám đương đầu với nguy hiểm, xua đuổi được tà ma và bệnh tật. Lễ hội này thường diễn ra vào cuối năm, khi mà mùa đông đang ở giai đoạn khắc nghiệt nhất.
Bắt đầu cho lễ hội nhảy lửa này là phần lễ. Thầy mo sẽ ngồi trên một cái ghế dài để cúng thần linh, gõ vào hai vật bằng sắt, tạo ra những âm thanh gấp gáp, liên tục. Việc cúng thần này nhằm tạo nên sức mạnh phi thường cho những con người Pà Thẻn, để họ có thể nhảy vào lửa. Thông thường, phần cúng lễ sẽ được bắt đầu trước phần hội ít nhất là 4 tiếng đồng hồ. Đống lửa mang lại sự ấm áp cho mọi người, đồng thời cũng là biểu trưng cho buổi ăn mừng một mùa vụ hoa màu vừa kết thúc, thần linh phù hộ nhân dân sống an khang thịnh vượng, xua đuổi tà ma, bệnh tật.
Khi đến phần hội, các thanh niên Pà Thẻn bắt đầu tụ tập xung quanh thầy mo, tiếng gõ của thầy mo ngày một gấp gáp hơn. Trong phút chốc, họ run bầng bậc và bắt đầu nhảy lên nhảy xuống. Trong khi đó, có một người thanh niên khác chạy vòng vòng quanh sân, thỉnh thoảng lại nhặt một cục than còn đỏ lên và cho vào miệng ăn. Đến một lúc nhất định, người này mới bước vào vòng lửa.
Họ dùng tay trần bốc lửa, nhảy trên những cục than còn đò rực bằng chân trần, có những người còn nằm hẳn trên đống lửa rồi mới nhảy ra ngoài. Những người khác đứng ở ngoài chiêm ngưỡng, cổ vũ bằng những tiếng reo hò, tán dương.
Tục xăm cằm của người Mảng
Người Mảng (Lai Châu) có tục lệ xăm cằm cho nam nữ thanh niên ở độ tuổi 12-18, đánh dấu sự trưởng thành của một con người trong cộng đồng. Tục xăm cằm tượng trưng cho sức mạnh của đấng tối cao che chở, giúp đỡ cho con người trước thế giới siêu nhiên cũng như cầu mong đức tính hiền dịu, đảm đang cho người phụ nữ.
Người được xăm cằm cảm thấy tự hào, vui vẻ vì biết được sau nghi thức này mình đã trở thành người trưởng thành, có tiếng nói trong cộng đồng, dòng tộc, được mọi người tôn trọng hơn
Tục khóc trâu của người Cơ tu
Vào dịp mùa lua mới, nhà nào cũng chuẩn bị sẵn một vài món ngon, sau lễ đâm trâu, mang đến nhà gươi góp, tổ chức ăn uống linh đình trong suốt một tuần và nghi thức đâm trâu cũng có nhiều luật tục phức tạp hơn bây giờ, trong đó có nghi thức khóc trâu trong lễ đâm trâu.
Màn tế, khóc trâu, nghi thức khóc trâu do một người già có vai vế trong làng, có năng khiếu về nói lý, hát lý, đại diện cho dân làng ra đứng gần bên con trâu mà than khóc. Nội dung khóc tế trâu nói lên tình cảm, thương tiếc con vật đã suốt đời gắn bó, phục vụ con người, nay lại làm vật hiến sinh cúng thần.
Giữa đêm khuya tĩnh lặng của rừng núi âm u với vài ngọn lửa le lói cháy giữa sân gươi, 5-6 người ngồi vừa tế, vừa đánh trống ngắt nhịp kèm theo lời ai oán, não nề, không gian lúc này rất thiêng liêng, u tịch. Theo các già làng, nhiều con trâu nghe và hiểu tiếng người khóc đã chảy nước mắt theo người tế.
Sau nghi thức “khóc trâu, tốp đàn ông, thanh niên, phụ nữ Cơ Tu mang trống chiêng, gươm, giáo… nhảy múa vòng quanh trụ gươi với vũ điệu múa Tung tung – Za zá. Cánh đàn ông múa gươm oai hùng, phụ nữ thì múa rất uyển chuyển.
Sau buổi nhảy múa, mọi người bắt đầu lễ đâm trâu. Đồng bào Cơ Tu cắt đầu trâu rồi đặt sát trụ gươi cùng với một hũ rượu để cúng trời, đất, tổ tiên, ông bà; thân trâu được mổ và chia đều cho từng hộ dân làng. Buổi chiều, sau khi già làng khấn vái xong lễ, họ mang đầu trâu đi làm sạch, nấu cho những người có công trong việc tổ chức lễ hội ăn uống ngày hôm sau.