Top 6 nhân vật ảnh hưởng nhất đối với nền văn hóa Việt Nam

0

Việt Nam được biết đến là một đất nước có nền văn hóa đặc sắc, với 4.000 năm văn hiến và những giá trị văn hóa đồ sộ. Dưới đây, Review.tip.edu.vn sẽ chỉ ra một số nhân vật có ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam mà bạn nên tham khảo.

Nhiếp ảnh gia

Nhiếp ảnh gia (137 – 226) là người Việt gốc Hán, trong giai đoạn 187 – 226, đã có công xuất sắc trong việc cai trị đất nước Việt cổ. Vì thực hiện nhiều chính sách tiến bộ nên ông được các hậu nhân tôn là Nam Giao Học Tổ. Đến đời Trần, ông được sắc phong là Thiên Sùng Gia Ứng Linh Vũ Đại Vương. Ông cũng được Ngô Sỹ Liên đánh giá cao là Sĩ. Nhà vua.

Cha ông tên là Sĩ Tử, làm tri huyện Nhật Nam thời Hán Hiến Đế. Nhiếp ảnh gia Du học kinh ký, học theo Lưu Tử Kỳ người Đình Xuyên, chuyên trị sách của Tạ Thị Xuân Thu. Nhiếp ảnh gia Ông đỗ đạt hiếu, được thăng Thượng thư lang, miễn làm quan, rồi về chịu tang cha. Sau đó ông đỗ Mậu Tài, phong ông làm Huyện lệnh Vũ Dương, rồi đổi làm Thái tử quận Giao Chỉ, tước Long Đô Định Hầu, đóng đô ở Liên Lâu (tức Long Biên). .

Từ đầu Công nguyên đến thế kỷ X, Việt Nam nằm dưới ách thống trị của phong kiến ​​Trung Quốc. Chữ Hán và chữ Hán do quan lại cai trị áp đặt và sử dụng. Theo Đào Duy Anh, Việt Nam bắt đầu có Hán học khi một nhà sư Thái Nhiếp ảnh gia (137 – 226) dạy dân Việt đi thi. Trải qua hơn một nghìn năm, hầu hết các chữ khắc trên bia đều bằng chữ Hán.

Ông mất năm Canh Ngọ, hưởng thọ 90. Đền thờ ông ở Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay.

Chùa Si Niep ở Bắc Ninh
Chùa Si Niep ở Bắc Ninh

Danh nhân Hàn Thuyên

Hàn Thuyên tên thật là Nguyễn Thuyên, quê ở làng Lại Hạ, huyện Thanh Lâm, tỉnh Nam Sách, lộ Lạng Giang, nay là xã Lai Hạ, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ Tiến sĩ năm 1247 và làm Thượng thư Bộ Hình dưới thời Trần Nhân Tông.

Hàn Thuyên rất giỏi thơ Nôm và được coi là người đã phát triển và phổ biến chữ Nôm của Việt Nam. Ông là người đầu tiên sử dụng luật thơ Đường vào thơ Nôm nên đời sau gọi là thơ Nôm theo Đường luật Hán tự.
Những sáng tạo của Hàn Thuyên đã mở ra hướng nghiên cứu, sáng tạo tích cực trong quá trình phát triển văn học viết chữ Nôm. Với những đóng góp phát huy bản sắc dân tộc, Hàn Thuyên được coi là một nhà văn hóa đáng nhớ.

Nơi yên nghỉ của danh nhân Hàn Thuyên ở thôn Lưu Đồn, xã Thụy Hồng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình
Nơi yên nghỉ của danh nhân Hàn Thuyên ở thôn Lưu Đồn, xã Thụy Hồng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

Cha Francisco de Pina – Cha đẻ của chữ quốc ngữ ngày nay

Cha Francisco de Pina (1585 – 1625) là nhà truyền giáo Công giáo người Bồ Đào Nha thuộc Dòng Tên, đến Ma Cao học một năm và được cử đến Đàng Trong năm 1617. Ông là linh mục đầu tiên nói thạo tiếng Việt, là người có công lớn. đi tiên phong trong việc phát hiện chữ quốc ngữ của nước ta.

Địa bàn mục vụ của ông trải dài từ Hội An đến Quy Nhơn. Cha Francisco de Pina chết đuối tại vùng biển Đà Nẵng vào ngày 15 tháng 12 năm 1625 khi đang cố gắng cứu hành khách trên một con tàu đắm.

The Father của chúng ta vào năm 1632, lần đầu tiên được dịch sang tiếng Việt bởi Cha Francisco de Pina và một giáo dân trẻ Việt Nam
The Father của chúng ta vào năm 1632, lần đầu tiên được dịch sang tiếng Việt bởi Cha Francisco de Pina và một giáo dân trẻ Việt Nam

Cha Alexandre de Rhodes (Theo Dak Lo)

Cha Alexandre de Rhodes (Alexander Dak Lo) sinh ra tại Avignon thuộc các Quốc gia thuộc Giáo hoàng vào năm 1593 (có tài liệu là 1591). Ông vào Dòng Tên ở Rôma năm 1612; thụ phong linh mục năm 1618; năm sau (1619), Cha lên thuyền từ Lisbonne đến Đông Dương và đến Ma Cao năm 1623. Ngày 27 tháng 12 năm 1624, Cha Dak Lo theo Cha Gabriel de Mattos đến làm việc tại Nam Kỳ, Việt Nam. 12 tháng 3 năm 1627, Cha Dak Lo cùng với Cha Peter Marques xuống tàu rời Ma Cao đi Đàng Ngoài. Con tàu gặp bão lớn và tràn vào Cửa Bạng – Thanh Hóa vào đúng ngày lễ Thánh Giuse 19 tháng 3 năm 1627. Đây là cột mốc đánh dấu việc mở đầu chính thức công cuộc truyền giáo tại Việt Nam. Cuối năm 1645, Cha lên tàu đi Âu Châu để bàn về tương lai của việc truyền giáo Việt Nam. Sau đó, ông được đưa vào sứ mệnh của Dòng Tên ở Ba Tư, cư trú tại Ispahan cho đến khi qua đời vào ngày 5 tháng 11 năm 1660.

Cha Alexandre de Rhodes Ông là một trong những nhà truyền giáo đầu tiên đặt nền móng xây dựng Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, trở thành một trong những tôn giáo có ảnh hưởng lớn nhất tại Việt Nam cho đến ngày nay. Với Cha Francisco de Pina, sau đó Cha Alexandre de Rhodes Ông cũng được coi là người có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển chữ quốc ngữ ở Việt Nam. Bằng chứng là chỉ 4 tháng sau khi đến Việt Nam, Cha đã có thể nghe xưng tội bằng tiếng Việt, thông thạo tiếng địa phương, đặc biệt hơn với bộ chữ mới này, Cha đã biên soạn cuốn “Phép giảng tám ngày” để dạy giáo lý cho người Việt. Mọi người.

Hình ảnh linh mục Alexandre de Rhodes trên một số tờ tiền của Việt Nam Cộng Hòa thời bấy giờ
Hình ảnh linh mục Alexandre de Rhodes trên một số tờ tiền của Việt Nam Cộng Hòa thời bấy giờ

Xẩm ca sĩ Hà Thị Cầu

Bà tên thật là Hà Thị Năm, sinh năm 1917 tại huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định trong một gia đình ba đời làm nghề hát Xẩm. Cha cô là một ca sĩ hát xẩm bị mù. Năm 11 tuổi, cha mất, mẹ cùng mẹ rời Nam Định vào thôn Quang Phục, xã Yên Phong, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình sinh sống.

Khoảng 8 tuổi, bà đã cùng cha mẹ gánh đồng đi khắp các chợ quê để tập hát Xẩm kiếm sống. Định cư ở Yên Mô (Ninh Bình), hai mẹ con xin học hát ở nhà ông trùm Xẩm Trưởng Mậu, lúc đó là trưởng đoàn hát sáu ở Ninh Bình. 16 tuổi, bà về làm vợ thứ 18 của ông trùm Xẩm Nguyễn Văn Mậu.

Bà mất ngày 3 tháng 3 năm 2013 tại nhà riêng ở xã Yên Phong, Yên Mô, Ninh Bình, hưởng thọ 97 tuổi.

Năm 1977, sau khi đất nước Việt Nam thống nhất, bà viết bài Đi theo Đảng suốt đời. Sau đó, cô tham dự nhiều hội diễn văn nghệ quần chúng toàn quốc, đoạt nhiều huy chương vàng và các giải thưởng đặc biệt. Năm 1981 – 1982, chị được Nhạc viện Hà Nội mời phụ trách chương trình nghệ thuật chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V.

Vao năm 2008, Nghệ nhân Hà Thị Cầu nhận Giải thưởng Đào Tấn, một giải thưởng cho những đóng góp trong việc bảo tồn kho tàng nghệ thuật dân tộc.

Những làn điệu Xẩm và giọng ca của cô là di sản quý báu của nghệ thuật Xẩm. Bà được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian ngày 25 tháng 12 năm 2004 và được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú.

Bà đã nỗ lực đệ trình UNESCO công nhận hát Xẩm là di sản văn hóa phi vật thể thế giới cần được bảo vệ khẩn cấp.

Theo nhạc sĩ Quang Long, Nghệ nhân Hà Thị Cầu là một lịch sử sống động của nghệ thuật hát Xẩm. Cuộc đời cô như con tằm đã quay xong. Không đồng áng, không lương hưu, vẫn nghèo như ngày bà bồng con đi hát khắp mọi miền đất nước, bà sống bằng tình thương yêu đùm bọc của những người yêu mến giọng hát của mình.

Nghệ nhân Xẩm Hà Thị Cầu
Nghệ nhân Xẩm Hà Thị Cầu

Nhà thơ Tố Hữu

Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại làng Phú Lai, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên Huế). Truyền thống văn hoá, văn học của quê hương, gia đình là nhân tố quan trọng hình thành nên hồn thơ Tố Hữu.

Thơ Tố Hữu là đỉnh cao của thơ trữ tình chính trị Việt Nam (Trần Đình Sử). Có thể tìm thấy những nét tiêu biểu của quan niệm nghệ thuật cách mạng ở đó. Ông được coi là người mở đường cho thơ ca cách mạng Việt Nam thế kỷ XX. Có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu của ông như sau:

  • Tập thơ đầu tay gồm 71 bài thơ được sáng tác trong 10 năm (1936 – 1946).
  • Tập thơ Việt Bắc được sáng tác chủ yếu trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954), gồm tổng số 24 bài thơ (trong đó 06 bài đã dịch, 03 bài sáng tác sau năm 1954).
  • Tập thơ về chiến trường gồm 31 bài thơ, sáng tác trong 10 năm chống Mỹ (1962 – 1971).
  • Tập thơ Một Tiếng Đồn gồm 72 bài, xuất bản năm 1993; đạt giải thưởng Châu Á.
Nhà thơ Tố Hữu - người mở đường cho nền thơ ca cách mạng Việt Nam
Nhà thơ Tố Hữu – người mở đường cho nền thơ ca cách mạng Việt Nam

Leave a comment