Top 7 Ý nghĩa nhan đề các tác phẩm văn xuôi lớp 12
Contents
Tên tác phẩm là một tín hiệu nghệ thuật vô cùng quan trọng chứa đựng nhiều thông điệp của nhà văn. Tiêu đề là đầu mối để hướng dẫn, điều chỉnh và truyền cảm hứng cho việc đọc. Một tác phẩm hay, thành công thì tiêu đề cũng rất quan trọng. Tiêu đề mang rất nhiều ý nghĩa, đôi khi bao hàm một vấn đề của cả tác phẩm, giúp tạo hiệu ứng tò mò, đến gần hơn với người đọc. Dưới đây là ý nghĩa tên các tác phẩm văn xuôi trọng điểm lớp 12:
Tiêu đề “Người Lái Đò Sông Đà”
Nhan đề “Người lái đò sông Đà” gợi lên hình ảnh người lái đò. Một người thường đi dạo trên sông. Người lái đò là một người lao động bình thường và một nghệ sĩ tài năng, người đã có công chinh phục và thần phục một dòng sông hung dữ. Nhan đề đề cao vẻ đẹp của sức mạnh chinh phục thiên nhiên xây dựng cuộc sống tốt đẹp của người lao động vùng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở.
Nhan đề “Người lái đò sông Đà” hoàn toàn phù hợp để sử dụng trong bài văn này, đây cũng là một yếu tố tạo nên tiếng vang cho tác phẩm. Lời tựa gợi cho người đọc sự tò mò về dòng sông, cũng như tìm ra cái hay của tác phẩm. Chỉ với nhan đề này, tác giả đã thể hiện sự thành công của tác phẩm ngay từ những câu đầu tiên.
Nhan đề “Vợ chồng A Phủ”
Tập truyện “Chuyện Tây Bắc” của nhà văn Tô Hoài đã đoạt giải nhất Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1954-1955. Trong đó “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm tiêu biểu giàu giá trị nội dung và nghệ thuật. .
Tên tác phẩm gợi nhiều ý nghĩa cho người đọc. “Vợ chồng A Phủ” lần đầu tiên được Tô Hoài đặt tên theo một nhân vật trong tác phẩm: A Phủ – một nhân vật có vai trò vô cùng quan trọng. Cụm từ “vợ chồng” chỉ mối quan hệ giữa hai nhân vật chính của tác phẩm (Mị và A Phủ). Trong cuộc sống, “vợ chồng” là những người có mối quan hệ rất khăng khít, tuy không cùng huyết thống nhưng chung sống, cùng nhau tạo dựng hạnh phúc. Trong truyện ngắn này, A Phủ và Mị từ hai người xa lạ, cùng cảnh ngộ đã thoát khỏi áp bức, tù đày để tìm tự do, từ đó họ trở thành vợ chồng. Qua đây, nhà văn muốn phản ánh số phận cuộc đời đáng buồn, bất hạnh của người dân vùng núi Tây Bắc. Và khẳng định để có cuộc sống hạnh phúc, đổi đời con người phải biết đoàn kết để vượt lên số phận. Cũng như vai trò to lớn của chính ánh sáng cách mạng sẽ soi đường cho họ đi tìm hạnh phúc.
Tóm lại, nhan đề “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài đã giúp người đọc có được những ấn tượng đầu tiên về tác phẩm.
Tiêu đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông”
Ai đã đặt tên cho dòng sông? ”Là bút kí đặc sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bằng tình cảm chân thành và sâu lắng với xứ Huế, tác giả đã lột tả trọn vẹn vẻ đẹp và hồn của sông Hương – con sông mang dáng hình và dấu ấn của xứ Huế mộng mơ. .
Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là câu hỏi của một thi nhân Hà Nội khi ngắm nhìn vẻ đẹp của sông Hương. Tiêu đề dẫn người đọc đến nguồn gốc tên sông. Và nội dung của bài văn “Ai đã đặt tên cho dòng sông” giải thích ý nghĩa tên sông với một truyền thuyết đẹp của dân làng Thành Chung: “Người làng Thành Chung có nghề trồng rau thơm, người ta nói ở đây là vì yêu dòng sông đẹp biết bao, người dân hai bên sông đã nấu nước trăm hoa đổ xuống sông làm cho nước thơm mãi, huyền thoại ấy đã trả lời cho câu hỏi: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” có lẽ cái tên thân thương “sông Hương” cũng chính là xuất phát từ tình cảm của những con người bình dị – những con người gắn bó sâu nặng với dòng sông ấy.
Con người xứ Huế, con người tạo nên bản sắc văn hóa xứ Huế, cũng chính là người đã đặt tên cho dòng sông – một nhân chứng lịch sử chứng kiến những thăng trầm của Huế, trải qua bao chặng đường phát triển. sự phát triển của lịch sử. Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường lấy đề bài dưới dạng câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” thể hiện khát vọng, niềm tự hào của con người khi muốn đem sắc đẹp, hương thơm để xây dựng và nuôi dưỡng văn hóa, lịch sử của Huế. Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông” còn thể hiện lòng biết ơn đối với những con người có công khai phá vùng đất này, thể hiện niềm tự hào về cảnh đẹp của đất nước.
Như vậy, đây là một nhan đề khái quát nội dung, tư tưởng và chủ đề của tác phẩm. Để trả lời, lý giải cho câu hỏi này không thể chỉ khái quát trong một vài câu nhưng khơi dậy hứng thú khám phá, tìm tòi của người đọc đối với tác phẩm.
Tiêu đề “Vợ nhặt”
Trong quá trình sáng tác của mình, đặt tên cho đứa con tinh thần là một trong những bước quan trọng nhất. Bởi lẽ, nhan đề không chỉ đơn giản là một cái tên để bắt đầu mà nó là nơi chứa đựng hình ảnh, nội dung tư tưởng của tác phẩm. Ngoài ra, nó cũng sẽ khơi gợi sự quan tâm của người đọc, họ sẽ chọn nó để đọc tiếp, hoặc không. Nó được ví như một chiếc chìa khóa mở ra cho người đọc tiếp cận những tầng ý nghĩa khác nhau của tác phẩm. Nhan đề truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân là một ví dụ điển hình.
Nhan đề “Vợ nhặt” gắn liền với bối cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm, đó là hoàn cảnh và số phận éo le của người phụ nữ trong nạn đói năm 1945. Chỉ với 2 buổi gặp mặt, 4 bát bánh thầu dầu, vài câu nói bâng quơ mà đã kết hôn. Ẩn sau nhan đề “Vợ nhặt” là những suy tư của tác giả, là sự trăn trở, xót xa trước giá trị thấp kém của những con người có hoàn cảnh khó khăn, éo le.
Tiêu đề gợi ra một tình huống khó hiểu, kích thích trí tò mò của người đọc. Thông thường, chúng ta chỉ thường thấy từ “vợ” với những từ như “vợ yêu, vợ đẹp …” nhưng ở đây, “vợ nhặt” chưa bao giờ rẻ đến thế. Vì dựng vợ gả chồng là việc trọng đại, thiêng liêng, có đính ước, có cưới xin theo phong tục cổ truyền của người Việt Nam, không thể coi thường và coi đó như một trò đùa.
Nhan đề “Nhặt vợ” gợi lại nạn đói khủng khiếp năm 1945. Từ đó, thấy được sự tàn bạo của chế độ thực dân, phát xít, thấy giá trị con người rẻ mạt – người nhặt được như cọng rơm. , rác trên đường phố. Tuy nhiên, câu chuyện này cũng bộc lộ vẻ đẹp của những con người lao động, họ vẫn hạnh phúc và vẫn còn hy vọng vào cuộc sống. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo mà nhà văn muốn gửi gắm. Ngoài ra, không thể phủ nhận rằng khi đọc tựa sách “Vợ nhặt” chúng ta bắt gặp một cái gì đó rất lạ và rất hấp dẫn, cái tên nghe lạ tai này đã giúp người đọc tò mò và chắc chắn. Phải đọc và hiểu câu chuyện này.
“Vợ nhặt” là một điều kỳ lạ, lập dị, bất thường, phi lý. Nhưng nó thực sự có rất nhiều ý nghĩa. Vì đúng là anh Tràng đã tìm được vợ thật của mình. Chỉ vài câu nói đùa của Tràng mà có người theo về làm vợ. Điều này thực sự đã biến một điều nghiêm túc, thiêng liêng thành một trò đùa và ngược lại, điều tưởng như đùa hóa ra lại là sự thật. Từ đây, tiêu đề tự nó gợi lên sự khó khăn, sự rẻ rúng của giá trị con người. Truyện Tràng tìm vợ nói lên tình cảnh éo le, tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
Tiêu đề “Chiếc thuyền ngoài xa”
“Chiếc thuyền ngoài xa” là một nhan đề mang tính biểu tượng, bộc lộ tình huống truyện, thể hiện chủ đề của tác phẩm. Tiêu đề bao gồm đối tượng quan sát là “Con thuyền”, khoảng cách quan sát là “xa”, người quan sát là nhiếp ảnh gia Phùng, cùng một người quan sát, cùng một đối tượng quan sát, nhưng ở các vị trí khác nhau. Khoảng cách khác nhau sẽ cho kết quả khác nhau, dẫn đến nhận thức khác nhau.
Chiếc thuyền ngoài xa xuất hiện trong truyện ngắn trước hết hướng người đọc đến một hình ảnh đẹp đẽ, đó là chiếc thuyền thu lưới giữa biển sớm mù sương, nó hoàn mỹ như “một bức tranh mực của một họa sĩ xưa”. . Vẻ đẹp ấy khiến người nghệ sĩ bối rối, xúc động, có cảm giác “khám phá ra chân lý của cái toàn thể, khám phá khoảnh khắc thanh tịnh của tâm hồn”. Nhưng khi con thuyền đến gần, đằng sau vẻ đẹp hoàn mỹ ấy là rất nhiều bối rối, đau khổ và nghiệt ngã. Cuộc sống của những người dân chài bị giam cầm bởi nghèo đói và bạo lực gia đình tăm tối.
Như vậy thông qua sự mâu thuẫn giữa vẻ đẹp tột cùng của thế giới bên ngoài và hiện thực khắc nghiệt của cuộc sống, nhà văn đã mang đến cho người đọc một bài học đúng đắn về cách nhìn cuộc sống của con người: phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, tránh sự đơn giản, hời hợt, cái nhìn bề ngoài, cái nhìn hình thức, phát hiện ra bản chất thật đằng sau vẻ bề ngoài của sự vật, hiện tượng.
Tiêu đề “Chiếc thuyền ngoài xa” là một cái nhìn tổng quan đơn giản về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nghệ thuật chân chính luôn gắn bó chặt chẽ với hiện thực cuộc sống, người nghệ sĩ phải có dũng khí trung thực để khám phá những hiện thực dù là tàn khốc của kiếp người. Nguyễn Minh Châu khẳng định về trách nhiệm của người nghệ sĩ: “nhà văn không có quyền nhìn sự việc đơn thuần, mà nhân vật cần phải nỗ lực đào sâu bản chất con người vào bề sâu của lịch sử”. Khi người nghệ sĩ có trách nhiệm trong việc nhìn nhận thực tế cuộc sống, “thường trực trăn trở về số phận và hạnh phúc của những người xung quanh” thì tác phẩm nghệ thuật mới đạt được giá trị cao nhất. “giá trị con người”.
“Chiếc thuyền ngoài xa” đã trở thành một bức tranh đẹp được treo ở nhiều nơi, nhất là trong giới sành nghệ thuật, nhưng không ai hiểu câu chuyện của những người trên con thuyền ấy. Riêng nghệ sĩ Phùng, mỗi khi xem ảnh, tôi luôn thấy “người đàn bà bước ra từ tranh”, một người phụ nữ cần cù, cam chịu, yêu thương và vị tha. lời nhắn nhủ của tác giả với người đọc: nghệ thuật luôn gắn liền với cuộc sống.
Tiêu đề “Những đứa con của gia đình”
Nhan đề gợi cho người đọc hình ảnh những người con trong một gia đình có truyền thống cách mạng tiếp nối và phát huy con đường lý tưởng cách mạng của ông cha.
Nó thể hiện sự quen thuộc trong ngòi bút của Nguyễn Thi, nhà văn thường khai thác những không gian nhỏ để tạo bối cảnh cho tác phẩm của mình, thường là một xã, một huyện, một xóm, một dòng họ nhưng cái độc đáo ở chỗ ông đã chọn lăng kính một gia đình để xem toàn thể chiến tranh, toàn thể dân tộc.
Cách nhìn đó đã dẫn đến một phát hiện, một nhận định, đó là sự tiếp nối truyền thống với hiện tại, hiện tại với quá khứ, sự hòa quyện của tình cảm gia đình với tình cảm cách mạng đã tạo nên sức mạnh. hồn thiêng của dân tộc Việt Nam, của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
Cuối cùng, nhà văn Nguyễn Thi muốn chúng ta nghĩ rằng không chỉ có một gia đình mà có cả một đất nước đang chiến đấu anh dũng từ sức mạnh sinh ra từ đau thương cũng như “rừng xà nu”, thì “Con nhà nòi”. được viết bằng cái mà chúng ta gọi là chủ nghĩa anh hùng.
Tiêu đề là “Forest of Sorrows”
Ý nghĩa hiện thực: Người viết nói về cây sa nu – một loài cây sống trong rừng ở Tây Nguyên. Loại cây này có sức sống bền bỉ, không khuất phục trước sự thay đổi của thời tiết.
Ý nghĩa biểu tượng: Thông qua sức sống mãnh liệt của cây xà nu và rừng xà nu, nhà văn nói lên nỗi đau và sức sống, tinh thần kiên cường bất khuất của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Tên tác phẩm: Rừng xà nu như một biểu tượng cao đẹp nói lên sức sống bền vững, lâu bền của con người Tây Nguyên. Nó tượng trưng cho tinh thần chiến đấu ngoan cường, bất khuất và tinh thần quyết thắng của họ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của cả dân tộc. Trở thành hình tượng mang vẻ đẹp sử thi hào hùng, hào hùng.