Văn mẫu lớp 9: Làng

0

I. Giới thiệu một vài nét về Kim Lân và xuất xứ, chủ đề truyện “Làng”

1. Tác giả

Kim Lân sinh năm 1920, tên là Nguyễn Văn Tài, quê ở Từ Sơn, Bắc Ninh. Ông vốn là thợ thủ công của làng nghề vùng Kinh Bắc. Với một vốn sống phong phú và từng trải về nông thôn Việt Nam, ông viết thành công đề tài về nông dân. Sinh họat đồng quê, những thú vui dân dã như đánh đu, chọi gà, chơi diều, thả chim bồ câu, dựng non bộ, hát chèo, đấu vật, hội hè,… được kể lại thật hay, thật đậm đà mà ông gọi là “thú phong lưu đồng ruộng”.

“Con chó xấu xí”, “Nên vợ nên chồng” là hai tập truyện ngăn nổi tiếng của Kim Lân. Các truyện ngắn như: Làng, Ồng.Cản Ngủ, Vợ nhặt,… là những kiệt tác văn chương đích thực.

2. Xuất xứ

Truyện “Làng” viết về đề tài nông dân trong kháng chiến chống Pháp, đăng trên Tạp chí Văn nghệ, năm 1948.

3. Chủ đề

Qua nhân vật ông Hai, tác giả đã thể hiện và ca ngợi tình yêu quê hương đất nước và nhiệt tình tham gia kháng chiến của người nông dân Việt Nam.

II. Tóm tắt truyện “Làng” của Kim Lân

Làng Dầu là quê hương bản quán của ông Hai. Là một nông dân nghèo khổ, dưới thời Pháp thuộc, ông Hai đã từng bị bọn hương lí trong làng truất ngôi trừ ngoại, phải phiêu dạt lang thang kiếm sông, lần mò vào đến tận đất Sài Gòn, Chợ Lớn, mười mây năm trước mới lần hồi trở về quê quán.

ông Hai hay làm, không mấy lúc chịu ngơi tay, không đi cày đi cuôc, gánh phân tát nước thì ông đan rổ rá hay chữa lại cái chuồng gà, cạp lại tấm liếp.

Ông Hai lại. có tính hay khoe cái làng Dầu cùa ông. Nào là nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh. Nào là đường trong làng toàn lát đá xanh… Nào là làng ông có cái sinh phần của viên tổng đốc, cái dinh cơ ấy “lăm lắm là của; vườn hoa, cây cảnh nom như động ấy”.

Nhưng từ ngày khởi nghĩa, ông Hai không bao giờ đả động đến cái làng ấy nữa, ông thù nó. Xây cái lăng ấy, cả làng phải phục dịch, còn ông thì bị một chồng gạch đổ làm bại một bên hông, đến nay cái chân vẫn còn đi khấp khểnh. Bây giờ khoe làng, ông Hai lại khoe khác. Khoe những ngày khởi nghĩa dồn dập, những buổi tập quân sự có các cụ phụ lão râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một hai. Khoe làng Dầu có nhiều hố, ụ, những giao thông hào. Những công trình ở xóm Ba Khu, ở Ngõ Mái… không để đâu hết. Ông khoe cái làng Dầu có phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre.

Kháng chiến bùng nổ, bà con làng Dầu đi tản cư. Nhưng ông Hai vẫn ở lại làng cùng anh em đào đường, đắp ụ… Trong lúc hữu sự, ông không nỡ bỏ làng ra đi. Nhưng rồi gia cảnh gieo neo, ba đứa con dại, một mình bà Hai xoay xở nơi tản cư, vốn liếng lại không có, ông Hai bất đắc dĩ phải nghe theo lời khẩn khoản của vợ để ra đi. Ông buồn khổ lắm, chỉ biết tự an ủi: “Thôi thì chẳng ở lại làng cùng anh em được, thì tản cư âu cũng là kháng chiến”.

Đến nơi tản cư, ông Hai buồn khổ, bực bội vô cùng. Ông trở nên ít nói, ít cười, hay cáu gắt. Ông sợ mụ chủ nhà, một người đàn bà lành chanh lành chói, đã lấy đến ba đời chồng, rất tham lam, tinh quái. Ông Hai nhớ làng, ông chỉ còn biết khoe làng với bác Thứ; ông chỉ còn có niềm vui đi đến phòng thông tin nghe đọc báo. Ông giả vờ đứng xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe lồm. Tin chiến sự đánh Tây, giết Tây làm cho “ruột gan ông lão cứ múa cả lèn, vui quá!”.

Nhưng rồi cái tin dữ “cả cái làng Dầu Việt gian theo Tây” từ miệng những người đàn bà tản cư nói ra làm cho ông Hai “nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”. Việt gian từ thằng chủ tịch,… cả làng vác cờ thần ra hoan hô giặc,… thằng chánh Bệu khuân cả tủ chè, đỉnh đồng, đưa vợ con lên vị trí với giặc ở ngoài tĩnh… Ông Hai cay đắng nguyền rủa cái giống Việt gian bán nước. Có lúc ông lại băn khoăn, ngờ ngợ: chả nhẽ cái bọn ở làng lại đôn đến thế… họ toàn là những người có tinh thần cả mà. Nhưng thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi.

Chiều hôm ây, bà Hai đi chợ về cũng uể oải, bần thần. Cả gian nhà lặng đi, hiu hắt. Suốt đêm ông Hai thao thức, nằm thở dài, chân tay nhũn ra. Ba, bôn hôm sau, ông Hai không dám bước chân ra đến ngoài. Ông sợ mụ chủ nhà, nhất là khi nghe mụ đưa tin về cái làng Dầu “đi Việt gian theo Tây”, có lệnh “đuổi hết những người làng chợ Dầu khỏi vùng này không cho ở nữa Vợ con khóc, ông Hai ngồi lặng ở một góc giường. Ông lo lắng biết đem nhau đi đâu bây giờ? Ông nghĩ ngợi. Có lúc ông nghĩ “hay là quay về làng?”. Có lúc, ông lại phản đốì: về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ. Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù. Ông chỉ còn biết ôm con thơ vào lòng mà tâm sự. Khi nghe thằng cu Húc nói: “ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!” thì nước mắt ông giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má.
Cái tin dữ được cải chính. Ông Hai đi từ chiều mãi đến sẩm tối mới về. Ông tươi vui, rạng rỡ hẳn lên, mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy. Ông’ mua bánh rán đường cho các con. Gặp ai ông cũng nói về cái tin làng Dầu Việt gian theo Tây “toàn là sai sự mục đích cả!”. Tối hôm ấy, ông lại sang bên gian nhà bác Thứ, ngồi trên chiếc chõng tre, vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái làng Dầu, chuyện Tây khủng bô’, chuyện dân quân, tự vệ làng ông bô’ trí, cầm cự ra sao, chuyện nhà ông bị Tây đốt,… rành rọt, tỉ mỉ như chính ông vừa dự trận đánh giặc ấy xong thật.

III. Phân tích nhân vật ông Hai Trong truyện”Làng” của Kim Lân.

Kim Lân là nhà văn hiện đại có một vốn sông vô cùng sâu sắc về nông thôn Việt Nam. Những thú chơi dân dã mang cốt cách “phong lưu đồng ruộng” như thả diều, chọi gà, nuôi chó sãn, thả chim bồ câu, chơi núi non bộ, gánh hát chèo, trẩy hội mùa xuân, v.v… được ông viết rất hay và cho ta nhiều trải nghiệm thú vị. Ông là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc mang hương đồng gió nội qua hai tác phẩm: “Con chó xấu xí” và “Nên vợ nên chồng”.

Viết về đề tài nông dân và kháng chiến, truyện “Làng” của Kim Lân thành công hơn cả. Nhân vật chính của truyện là ông Hai đã để lại trong lòng em nhiều ấn tượng sâu sắc, đẹp đẽ.

Ông Hai là một lão nông, cần cù chất phác, giàu lòng yêu quê hương đất nước. Ông gắn bó với cách mạng, quyết tâm đi theo kháng chiến, trung thành tuyệt đô’i vào sự lãnh đạo sáng suốt của Cụ Hồ Chí Minh.

Cũng như hàng triệu người nông dân khác, ông Hai là một con người cần cù chất phác rất đáng yêu. Ông hay lam hay làm, “ở quê ông làm suốt ngày, không mấy lúc chịu ngơi chân ngơi tay”. Đi cày, đi cuốc, gánh phân, tát nước, đan rổ, đan rá,… ông đều làm khéo, làm giỏi.

Ông Hai đã sông qua hai chế độ, trước kia ông mù chữ, sau nhờ Cách mạng mà ông được học “Bình dân học vụ”, biết đánh vần. Kim Lân đã kể rất hay về tình yêu làng của ông Hai. “Làng ta phong cảnh hữu tình”… không yêu làng sao được? Cái làng Dầu vôn là nơi chôn nhau cắt rốn của ông, “nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh”, “đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, bùn không dính đến gót chân”… Ồng Hai yêu làng mình với tất cả tấm lòng của một người dân quê chất phác.

Trước kia, ông Hai rất lấy làm tự hào về cái sinh phần quan tổng đốc làng ông. Đi đâu ông cũng khoe, gặp ai ông cũng khoe “cải dinh cơ cụ thượng làng tôi có lăm lắm là của. Vườn hoa cây cảnh nom như động ấy…”. Ong yêu làng Dầu với tất cả sự hồn nhiên, ngây thơ của người ít học. Ông đã mang thương tật trên mình khi bị bắt làm phu xây cái lăng ấy! Đáng lẽ ông không nên khoe, không nên “hả hê cả lòng” Nỗi đau, nỗi nhục của một đời người nói làm gì nữa cho thêm phần nhục nhã? Nhắc lại chuyện xưa, cũ ấy của ông Hai, Kim Lân đã viết với một giọng văn châm biếm nhẹ nhàng. Từ ngày cách mạng thành công, ông Hai vẫn yêu làng, yêu với tất cả tình cảm trong sáng, chân thành. Ông đã có nhiều thay đổi về mặt nhận thức. Ông không bao giờ còn “đả động” đến “cái sinh phần” ấy nữa, ông biết “thù nó” đến tận tim gan. Ông yêu cái làng Dầu kháng chiến với tất cả niềm kiêu hãnh cao cả! Cái làng Dầu của ông “có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy”. Ông khoe làng mình “những ngày khởi nghĩa rầm rập”, các cụ phụ lão râu tóc bạc phơ vác gậy đi tập quân sự, “nhắt là những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông thỉ lắm công trỉnh không để đâu hết!”. Có thể nói, từ ngày đi tản cư, phải xa làng thân yêu, bao nỗi buồn vui của quá khứ và hiện tại chứa chất trong lòng ông bao tâm sự. Dưới ngòi bút của Kim Lân, ông Hai, một người nông dân yêu làng, yêu nước, hiền lành, chất phác… hiện lên một cách chân thực, ta thấy gần gũi, bình dị và đáng yêu lắm. Tình yêu làng, tình yêu quê hương là một trong những tình cảm sâu sắc nhất của người dân cày Việt Nam.

Quyết tâm kháng chiến, tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Hồ Chủ tịch cũng là một nét rất đẹp trong tư tưởng, tình cảm của ông Hai. Kháng chiến thì khắp nơi “Ruộng rẫy là chiến trường. Cuốc cày là vũ khí. Nhà nông là chiến sĩ!”. Vợ con đi tản cư, nhưng ông Hai vẫn ở lại cùng với đội du kích “đi đào đường đắp ụ” để bảo vệ cái làng Dầu thân yêu. Khi hoàn cảnh gia đình neo bấn, vợ con thúc bách, cực chẳng đã phải xa quê hương, ông tự an ủi mình: “Thôi thì chẳng ở lại làng cùng anh em được thì tản cư âu củng là kháng chiến!”.

Xa làng rồi nhớ làng, tính nết ông Hai có phần thay đổi. Ông ít nói ít cười, lầm lầm lì lì, thậm chí cáu gắt, chửi bới vợ con. Ông vô cùng đau khổ: “Chúng mày làm khổ ông! Chúng mày làm khổ ông vừa vừa chứ! Ông thì giết hết, ông thì giết hết!”. Chúng ta cảm thông với “tâm sự” u ẩn của ông, thương ông lắm!

Trong lúc ông Hai đang hồ hởi với những chiến tích kháng chiến, những gương dũng cảm anh hùng của quân và dân ta thì ông như bị sét đánh về cái tin “dữ” cả làng Dầu “Việt gian theo Tây”…, “vác cờ thần ra hoan hô” lũ giặc cướp! Ông tủi nhục cúi găm mặt mà đi, nằm vật ra giường như bị ốm nặng, nước mắt cứ tràn ra, có lúc ông chửi thề một cách chua chát! Ông sống trong bi kịch triền miên. Vợ con vừa buồn vừa sợ. “Gian nhà lặng đi, hiu hắt”. Ông sợ mụ chủ nhà… có lúc ông nghĩ quẩn “hay là quay về làng”… nhưng rồi ông lại kiên quyết: “Làng thì yểu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!”. Kim Lân rất sâu sắc và tinh tế miêu tả những biến thái vui, buồn, lo, sợ… của người nông dân về cái làng quê của mình. Họ đã yêu làng trong tình yêu nước, đặt tình yêu nước lên trên tình yêu làng. Đó là một bài học vô cùng quý giá và sâu sắc của ông Hai đem đến cho mỗi chúng ta!

Cuộc đối thọai giữa hai bố con ông Hai là một tình tiết cảm động và thú vị:

… – “À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?”

– “Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”

Nghe con ngây thơ nói mà nước mắt ông chảy ròng ròng trên hai má… Lòng trung thành của cha con ông, của hàng triệu nông dân Việt Nam đốì với lãnh tụ là vô cùng sâu sắc, kiên định, vẻ đẹp tâm hồn ấy của họ rất đáng tự hào, ngợi ca.

Vì thế, khi cái tin thất thiệt “cả cái làng Dầu Việt gian theo Tây” được cải chính thì ông Hai là người sung sướng nhất. Ông “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”, “mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ…”.. Ông mua quà cho con. Ông chạy sang nhà bác Thứ để “khoe” cái tin làng Dầu đánh giặc, nhà ông bị Tây đốt. Tự hàọ lắm chứ! Người đọc như được san sẻ niềm vui sướng cùng ông.

Gấp trang sách lại, chúng ta bồi hồi xúc động về tình yêu làng của ông Hai, về nghệ thuật kể chuyện tạo tình huống hấp dẫn, hồi hộp của nhà văn Kim Lân. Những phẩm chất tốt đẹp của ông Hai như cần cù lao động, chất phác, yêu quê hương đất nước… tiêu biếu cho bản chất cao quý, trong sáng của người dân cày Việt Nam. Chính họ đã đổ mồ hôi làm nên những bát cơm đầy dẻo thơm nuôi sông mọi người. Chính họ đã đem xương máu, đánh giặc “giữ làng, giữ nưóc, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”… (Thép Mới).

Leave a comment