Văn mẫu lớp 9: Mùa xuân nho nhỏ

0

I. Giới thiệu một vài nét về Thanh Hải, về xuất xứ và chủ đề bài thơ“Mùa xuân nho nhỏ”.

1. Tác giả

Nhà thơ Thanh Hải (1930 – 1980) là bút danh của Phạm Bá Ngoãn, quê ở Phong Điền, thuộc Thừa Thiên – Huế. Ông là người có công lớn thắp sáng ngọn lửa thi ca cách mạng trong lòng miền Nam trong những năm dài đen tốì, đầy máu và nước mắt dưới ách thông trị tàn bạo của anh em Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mĩ.
Thơ của Thanh Hải có ngôn ngữ trong sáng, giàu âm điệu nhạc điệu, cảm xúc thiết tha, chân thành và lắng đọng:

“… Mộ anh trên đồi cao Cành hoa này em hái Vòng hoa này chị đơm Cây bông hồng em ươm Em trồng vào trước cửa … Trên mộ người Cộng sản Bông hồng đỏ và đỏ Như máu nở thành hoa…”

(“Mồ anh hoa nở’’- 1955)

Thanh Hải sở trường về thơ năm chữ. Sáng tác thơ của ông gồm có: “Những đồng chí trung kiên”, “Huế mùa xuân”, “Dấu võng Trường Sơn”,… Các bài thơ: “Mồ anh hoa nở”, “Cháu nhớ Bác Hồ”, “Mùa xuân nho nhỏ”,… là những bài thơ kiệt tác làm vẻ vang một hồn thơ xứ Huế.

2. Xuất xứ, chủ đề

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được Thanh Hải viết vào tháng 11 năm 1980, khi còn nằm trên giường bệnh, một tháng trước lúc qua đời.

Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp và khí thế của đất nước vào xuân, thể hiện khát vọng và tình yêu thiết tha được trọn đời hiến dâng cho quê hương đất nước.

II. Bình giảng đoạn đầu bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải

Thơ là cái đẹp muôn đời, cái đẹp của thiên nhiên, cái đẹp của con người. Có lẽ mùa xuân là thời gian hội tụ bao vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam nên thơ xuân mới hay và đậm đà như thế. Ta bâng khuâng một nét xuân trong thơ vua Trần Nhân Tông:

“Song song đôi bướm trắng Phất phới phấn hoa bay”.

(Buổi sớm mùa xuân)

Ta cảm một sắc xuân tươi xinh rực rỡ trong thơ của thi hào Nguyễn Du:

“Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.

(Truyện Kiều)

Ta rạo rực dõi nhìn một cánh đu bay trong ngày hội xuân của làng quê thân thuộc: “Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,

Hai hàng chân ngọc duỗi song song”.

(Đánh đu – Hồ Xuân Hương)

Và đây là thơ xuân của Thanh Hải:

“Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc ơi con chìm chiền chìện Hót chi mà vang trời Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng”…
Có người đã cho rằng: “Đoạn thơ đẹp như bức tranh”. Đó là bức tranh xuân của “Huế đẹp và thơ”, quê mẹ thương yêu của thi sĩ Thanh Hải.

Hai câu thơ đầu là một sắc xuân tươi xinh rực rỡ tắm mát tâm hồn chúng ta. Vần thơ như một tiếng nói thốt lên khi ngạc nhiên chợt thấy một cảnh đẹp mà lòng xôn xao xúc động:

“Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc”

Có sông và hoa. Có màu “xanh” của dòng sông làm nền để tô điểm màu “tím biếc” của hoa, bông hoa xuân mới “mọc”, mới nở. Dòng sông hiện hữu trong bài thơ Thanh Hải không phải là con sông chung chung nào, mà người đọc dễ nhận ra, đó là sông Hương “bài thơ trữ tình cố đô Huế” như thi sĩ Tô” Hữu tâm sự:
“Hương Giang ơi, dòng sông êm Qua tim ta, vẫn ngày đêm tự tình”…
“Bông hoa tím biếc” mọc giữa dòng sông xanh chỉ có thể là hoa súng, hoa lục bình dân dã mà Lê Anh Xuân từng say mê ngắm nhìn sau những năm dài xa cách mới trở về quê nội:

“Hoa lục bình tím cả bờ sông”.

Chữ “mọc” nằm đầu câu thơ “Mọc giữa dòng sông xanh” thể hiện một nét xuân đột hiện, một sức xuân mạnh mẽ xuất hiện xinh đẹp, non tơ, lộng lẫy như một nàng xuân trong sắc áo “tím biếc” kiêu sa trên cái nền xanh của dòng sông. Thanh Hải đã sử dụng hai gam màu tươi sáng để vẽ lên một nét xuân đẹp trên bức tranh xuân đẹp.

Ngắm dòng sông, bâng khuâng nhìn hoa xuân đẹp, nhà thơ khẽ reo lên khi bỗng nghe chim hót “vang trời”.

“Ơi! Con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời”

“Ơi” là từ cảm thán biểu đạt sự xúc động bồi hồi của nhà thơ khi nghe chim chiền chiên hót. Tiếng chim hót là khúc nhạc đồng quê. Chim chiền chiên làm tổ trên luống cày, nó là người bạn thân thiết của nhà nông. Nghe chiền chiên hót mà mừng vui, chim báo sẽ được mùa: “Chiền chiện hót lúa tốt bời bời” (Tục ngữ). Hai tiếng “hót chi” rất gợi cảm, là cách nói “dịu ngọt” của bà con “xứ Huế chúng miềng”. Qua đó, ta thấy nét xuân thứ hai được nhà thơ cảm nhận là một nét vui. Qua tiếng chim hót mà ta cảm được cái mênh mông trong sáng của bầu trời xuân. Ta cảm được tấm lòng hồn hậu của đứa con xứ Huế. Một cử chỉ rất tao nhã và đáng yêu:

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

Không hề nói đến nắng mà ta vẫn cảm nhận được ánh hồng bình minh làm long lanh những giọt sương tròn như hòn ngọc bé tí treo trên đầu ngọn cỏ, lá cây. “Từng giọt long lanh rơi” cũng có thể là những chuỗi âm thanh, từng chuỗi tiếng chim chiền chiên từ trời cao vọng đêh, “rơi” xuống? Cái cử chỉ “đưa tay… hứng” thể hiện một hồn thơ chan hoà với thiên nhiên, đất trời, tạo vật.

Thơ đích thực là một hữu hình mà mở ra trong lòng người đọc những sắc màu và chân trời bao la. Tiếng chim hót, giọt long lanh trong thơ Thanh Hải cũng vậy, nó mở ra bao thế giới về cảnh sắc ban mai trên đồng quê. Cảnh sắc thân thuộc đáng yêu biết bao:

“Mặt trời càng lên tỏ Bông lúa chín thêm vàng Sương treo trên đầu cỏ Sương lại càng long lanh

Bay vút tận trời xanh Chiền chỉện cao tiếng hót”…

(“Thăm lúa”- Trần Hữu Thung)

Đoạn thơ ngũ ngôn sáu câu ba mươi chữ của Thanh Hải quả là một bức tranh xuân đẹp và tươi vui. Có bầu trời và dòng sông. Có hoa khoe sắc và chim cất tiếng hót. Có giọt sương rnai long lanh. Hình ảnh con người xuất hiện trên bức tranh xuân với cử chỉ tao nhã, ung dung, với tâm hồn trong sáng, lạc quan yêu đời và giàu tình yêu thiên nhiên.

“Mùa xuân nho nhỏ” là một bài thơ xuân kiệt tác của Thanh Hải. Ông viết bài thơ này vào tháng 11 năm 1980, một tháng trước lúc ông qua đời. Có thể nói, đoạn thơ trên đây là khát vọng mùa xuân muôn đời.

III. Phân tích đoạn thơ sau trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải:

“Mùa xuân người cầm súng

… Cứ đi lên phía trước”.

BÀI LÀM

“Mọc giữa dòng sông xanh Một hông hoa tím biếc ơi! Con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời…”

Mùa xuân trong thơ của Thanh Hải đem đến cho chúng ta nhiều xúc động. Từng vần thơ nhẹ nhàng trong sáng cứ ngân nga mãi trong lòng người nghe, lôi cuốn ta trước vẻ đẹp của đất nước vào xuân.

Bước đi của mùa xuân như đang hoà nhịp với bước “đi lên phía trước” của dân tộc trên hành trình “vất vả”, “gian lao” nhưng rất đỗi tự hào qua một đoạn thơ mà em yêu thích:

“Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy quanh lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc trải dài nương mạ Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao.
Đất nước bốn nghìn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vi sao Cứ đi lên phía trước…”

(“Mùa xuân nho nhỏ’”)

 

Mùa xuân đến giữa hương sắc và âm thanh đất trời, lòng người vui “xôn xao”. Cả một dân tộc bừng bừng khí thế, một sức xuân dào dạt “hối hả” bước đi giữa mùa xuân. Mùa xuân mang đến cho nhân dân ta một sức sống mới, nhiệt tình cách mạng mới, hăng hái, khẩn trương lên đường. Cả một dân tộc ngập tràn niềm vui. Người người “xôn xao” đón chào một mùa xuân đẹp, một “mùa xuân hồng”.

“Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao…”.

Cặp từ láy “hối hả”, “xôn xao”, điệp ngữ “tất cả” như những nốt nhạc ngân nga trong ca khúc xuân hành, diễn tả niềm tự hào và khí thế cách mạng sôi nổi của nhân dân ta đang vững bước đi lên phía trước.

Sức xuân ấy của hàng triệu con người đang dồn vào hai nhiệm vụ chiến lược: Sản xuất và chiến đấu. Bốn câu thơ song hành từng đôi một, hô ứng nhịp nhàng, hài hoà như bước đi của dân tộc giữa mùa xuân:

“Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy quanh lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc trải dài nương mạ”.

“Lộc”- chồi non, cành biếc, non tơ, đầy nhựa sông, tượng trưng cho vẻ đẹp và sức sông mùa xuân. Người chiến sĩ ra trận với cành lá nguy trang “lộc giắt đầy quanh lưng” như mang cả một sức xuân căng tràn mà không một thế lực nào có thể ngăn cản được. Ớ hậu phương, với bàn tay lao động cần cù, người nông dân đang phủ màu xanh lên đồng quê “lộc trải dài nương mạ”.

Câu thơ có nhạc điệu dồn dập hân hoan; hình ảnh vừa cụ thể gợi cảm, vừa mang ý nghĩa khái quát sâu sắc. Mùa xuân gắn liền với nhip sống nhân dân “vất vả và gian lao” nhưng cũng rất vinh quang, vì nhân dân đang mang lại mùa xuân, đang làm ra mùa xuân.

Khổ thơ tiếp theo, nhà thơ nói lên những suy cảm của mình về đất nước và dân tộc. Cảm hứng lịch sử tạo nên những ý thơ sâu lắng, chan chứa tự hào. Một dân tộc. đau thương và anh dũng, “vất vả và gian lao”, bao nhiêu máu, nước mắt và mồ hôi đã đổ xuống trên hành trình “bốn ngàn năm” lịch sử. “Đất nước” được lấy lại hai lần trong khổ thơ diễn tả thật ý vị và cảm xúc sung sướng tự hào dâng lên dào dạt. Đất nước tuy “vất vả và gian lao” nhưng đất nước đẹp vô cùng: “Đất nước như vì sao”. Một hình ảnh so sáng tuyệt đẹp diễn tả tình yêu đất nước và niềm tự hào dân tộc của nhân dân ta. Đất nước ta đẹp như “vì sao” vì dân tộc ta “chưa bao giờ khuất” (Nguyễn Đình Thi); có một truyền thông anh hùng chống giặc ngoại xâm chói ngời những trang sử oai hùng: Bạch Đằng, Chi Lăng, Đông Đa, Điện Biên… “Đất nước như vì sao” có một nền văn hiến lâu đời như Nguyễn Trãi đã viết trong “Bình Ngô đại cáo”:

“Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu…”

Tự tin, tự hào khi nhà thơ nghĩ về hành trình “đi lên phía trước” của dân tộc để chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng Tổ quốc Việt Nam “mười lần đẹp hơn” như Bác Hồ mong muôn. Ba chữ “cứ đi lên…” làm toát lên ý chí mạnh mẽ, sáng chói niềm tin. Hình ảnh đất nước được nhân hoá diễn tả tình yêu nước vô cùng sâu nặng của tác giả. Phép đối được nhà thơ vận dụng sáng tạo làm cho câu thơ giàu hình ảnh và gợi cảm:

“Đất nước bốn nghìn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước”.

Đoạn thơ trên trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải để lại trong lòng chúng ta một ấn tượng sâu sắc.

Thể thơ năm chữ được tác giả vận dụng nhuần nhuyễn thành công. Lời thơ trong sáng, truyền cảm và giàu hình tượng. Phép đối, điệp từ, so sánh và nhân hoá được sử dụng một cách điêu luyện diễn tả cảm hứng yêu nước, tự hào của nhà thơ, tạo nên những vần thơ có nhạc điệu tha thiết dạt dào.

Có gì đẹp hơn mùa xuân? Có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu thiên nhiên, ảất nước? Cảm ơn nhà thơ Thanh Hải để lại một đoạn thơ nói về mùa xuân. Chúng ta ước mong mỗi con người hãy trở thành “một mùa xuân nho nhỏ” để góp phần làm đẹp đất nước, quê hương hôm nay và ngày mai.

IV. Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.

Núi Ngự sông Hương là quê hương thân yêu của nhà thơ Thanh Hải. Ông là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. “Mồ anh hoa nở”, “Những đồng chí trung kiên”, “Mùa xuân nho nhỏ”… là những bài thơ đặc sắc nhất của Thanh Hải.

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được ông viết vào năm 1980, trong khung cảnh hòa bình, xây dựng đất nước. Một hồn thơ trong trẻo. Một điệu thơ ngân vang. Đất nước vào xuân vui tươi rộn ràng.

1. Sáu câu thơ đầu như tiếng hát reo vui đón chào một mùa xuân đẹp đã về. Trên dòng sông xanh của quê hương mọc lên “một bông hoa tím biếc”. Động từ “mọc” nằm ở vị trí đầu câu thơ gợi tả sự ngạc nhiên vui thú, một niềm vui hân hoan đón chào tín hiệu mùa xuân:

“Mọc giữa dòng sông xanh,

Một bông hoa tím biếc”.

“Bông hoa tím biếc” ấy chỉ có thể là hoa lục bình, hoặc hoa súng mà ta thường gặp trên ao hồ, sông nước làng quê:

“Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng Hoa lục bình tím cả bờ sông…”.

(“Trở về quê nộỉ’ – Lê Anh Xuân)

Màu xanh của nước hòa hợp với màu “tím biếc” của hoa đã tạo nên bức tranh xuân chấm phá mà đằm thắm.

Ngẩng nhìn bầu trời, nhà thơ vui sướng lắng tai nghe chim chiền chiên hót. Chim chiền chiên còn gọi là chim sơn ca, bạn thân của nhà nông. Từ “ơi” cảm thán biểu lộ niềm vui ngây ngất khi nghe chim hót:

“ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời”.

Hai tiếng “hót chi” là giọng điệu thân thương của người dân Huế được tác giả đưa vào diễn tả cảm xúc thiết tha giữa người với tạo vật. Chim chiền chiên hót gọi xuân về. Tiếng chim ngân vang, rung động đất trời đem đến bao niềm vui. Ngắm dòng sông, nhìn bông hoa đẹp, nghe chim hót, nhà thơ bồi hồi sung sướng:
“Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng”

“Đưa tay… hứng” là một cử chỉ bình dị trân trọng, thể hiện sự xúc động sâu xa. “Giọt long lanh” là sự liên tưởng đầy chất thơ. Là giọt sương mai, hay giọt âm thanh tiếng chim chiền chiên? Sự chuyển đổi cảm giác (thính giác – thị giác) đã tạo nên hình khối thẩm mĩ của âm thanh.

Tóm lại, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, tiếng chim chiền chiên hót…, Thanh Hải đã vẽ nên một bức tranh xuân đẹp tươi và đáng yêu vô cùng. Đó là vẻ đẹp và sức sông mặn mà của đất nước vào xuân.

2. Bốn câu thơ tiếp theo nói về mùa xuân sản xuất và chiến đấu của nhân dân ta. cấu trúc thơ song hành để chỉ rõ hai nhiệm vụ chiến lược ấy:

“Mùa xuân người cầm súng,

Lộc giắt đầy quanh lưng.

Mùa xuân người ra đồng,

Lộc trải dài nương mạ”.

“Lộc” là chồi non, cành biếc mơn mởn. Khi mùa xuân về cây cối đâm chồi nẩy lộc. “Lộc” trong văn cảnh này tượng trưng cho vẻ đẹp mùa xuân và sức sống mãnh liệt của đất nước. Người lính khoác trên lưng vành lá ngụy trang xanh biếc, mang theo sức sông mùa xuân, sức mạnh của dân tộc để bảo vệ Tổ quốc. Người nông dân, đem mồ hôi và sức. lao động cần cù làm nên màu xanh cho ruộng đồng, “trải dài nương mạ” bát ngát quê hương. Ý thơ vô cùng sâu sắc: máu và mồ hôi của nhân dân đã góp phần tô điểm cho mùa xuân và để giữ lấy mùa xuân mãi mãi.

Cả dân tộc bước vào mùa xuân với khí thế khẩn trương và náo nhiệt:

“Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao”.

“Hối hả” nghĩa là vội vã, gấp gáp, khẩn trương. “Xôn xao” là có nhiều âm thanh xen lẫn vào nhau, làm cho náo động; ở trong câu thơ, “xôn xao” cùng với điệp ngữ “tất cả như…” làm cho nhạc thơ vang lên nhịp điệu vui tươi, mạnh mẽ khác thường. Đó là hành khúc “Mùa xuân” của thời đại Hồ Chí Minh.

3. Đoạn thơ tiếp theo nói lên những suy tư của nhà thơ về đất nước và nhân dân:

“Đất nước bốn nghìn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước”.
Chặng đường lịch sử của đất nước với bôn nghìn năm trường tồn, lúc suy vong, lúc hưng thịnh với bao thử thách “vất vả và gian lao”. Thời gian đằng đẵng ấy, nhân dân ta từ thế hệ này qua thế hệ khác đã đem xương máu và mồ hôi, lòng yêu nước và tinh thần quả cảm để xây dựng và bảo vệ đất nước. Dân ta tài trí và nhân nghĩa. Bôn nghìn năm lập quốc tỏa sáng nền văn hiến Đại Việt, đã khẳng định sức mạnh Việt Nam. Câu thơ “Đất nước như vì sao” là một hình ảnh so sánh đẹp và đầy ý nghĩa. Sao là nguồn sáng lấp lánh, là vẻ đẹp bầu trời, vĩnh hằng trong không gian và thời gian. So sánh đất nước với vì sao là thể hiện niềm tự hào đôì với đất nước Việt Nam anh hùng, giàu đẹp. Hành trang đi tới tương lai của dân tộc ta không một thế lực nào có thể ngăn cản được: “Cứ đi lên phía trước”. Ba tiếng “cứ đi liên” thể hiện chí khí, quyết tâm và niềm tin sắt đá của dân tộc để xây dựng một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh”.

4.Sau lời suy tư là điều tâm niệm của Thanh Hải. Trước hết là lời nguyện cầu được hóa thân:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến”.

“Con chim hót” để gọi xuân về, đem đến niềm vui cho con người. “Một cành hoa” để tô điểm cuộc sông, làm đẹp thiên nhiên sông núi. “Một nốt trầm” của bản “hòa ca” êm ái để làm xao xuyến lòng người, cổ vũ nhân dân. “Con chim hót”, “một cành hoa”, “một nốt trầm…” là ba hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho cái đẹp, niềm vui, cho tài trí của đất nước và con người Việt Nam.

Với Thanh Hải, hóa thân là để hiến dâng, để phục vụ cho một mục đích cao cả:

“Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dăng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc hạc”.

Lời thơ tâm tình thiết tha. Mỗi con người hãy trở thành “một mùa xuân nho nhỏ” để làm nên mùa xuân bất tuyệt của đất-nước. Ai cũng phải có ích cho đời. “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo khắc sâu ý tưởng: ‘Mỗi cuộc đời đã hóa núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm). “Nho nhỏ”“lặng lẽ” là cách nói khiêm tôn, chân thành. “Dâng cho đời” là lẽ sông đẹp, cao cả. Bởi lẽ “Sống là cho, đấu chỉ nhận riêng mình” (Tô” Hữu). Sông hết mình thủy chung cho đất nước, đem cả cuộc đời mình phục vụ đất nước, cả từ lúc “tuổi hai mươi” trai tráng cho đến khi về già “tóc bạc”. Thơ hay là cảm xúc chân thành. Thanh Hải đã nói lên những lời “gan ruột” của mình. Ông đã sông như lời thơ ông tâm tình. Khi đất nước bị Mĩ – Diệm và bè lũ tay sai âm mưu chia cắt làm hai miền, ông họat động bí mật trong vùng giặc, gây dựng phong trào cách mạng, coi thường cảnh máu chảy đầu rơi. Cảm động hơn nữa là bài thơ ‘Mùa xuân nho nhỏ” được ông viết ra trên giường bệnh, một tháng trước lúc ông qua đời.

Thanh Hải sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp ngữ rất tài tình: “Ta làm… ta làm… ta nhập…”, “dù là tuổi… dù là khi…” đã làm cho âm điệu thơ, giọng thơ tha thiết, sâu lắng, ý thơ được khắc sâu và nhấn mạnh. Người đọc xúc động biết bao trước một giọng điệu thơ trữ tình, ấm áp tình đời như vậy. Có thể xem đoạn thơ này là những lời trăng trôi của ông.

5. Khổ thơ cuối là tiếng hát yêu thương:

“Mùa xuân – ta xiỉị hát Câu Nam ai, Nam bình Nước non ngàn dặm mình Nước non ngàn dặm tình Nhịp phách tiền đất Huế”.
Nam ai và Nam bình là hai điệu dân ca Huế rất nổi tiếng mấy trăm năm nay. Phách tiền là một nhạc cụ dân tộc để điểm nhịp cho lời ca, tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục. Câu thơ “Mùa xuân ta xin hát” diễn tả niềm khao khát bồi hồi của nhà thơ đối với quê hương yêu dấu buổi xuân về. Quê hương đất nước trải dài ngàn dặm, chứa chan tình yêu thương. Đó là “ngàn dặm mình”, “ngàn dặm tình” đối với non nước và xứ Huế quê mẹ thân thương! Câu thơ của người con đất Huế quả là “dịu ngọt” vậy.

Mùa xuân là đề tài truyền thông trong thơ ca dân tộc. Thanh Hải đã góp cho thơ ca dân tộc một bài thơ xuân đẹp, đậm đà tình nghĩa. Thể thơ năm chữ, giọng thơ lúc mạnh mẽ, lúc tha thiết ngân vang. Ngôn ngữ thơ trong sáng và biểu cảm, hàm súc và hình tượng. Các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, song hành đốì xứng, điệp ngữ… được vận dụng sắc sảo, tài hoa. Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu đất nước, quê hương được Thanh Hải diễn tả một cách sâu sắc, cảm động. Mỗi một cuộc đời hãy là một mùa xuân. Đất nước ta mãi mãi sẽ là những mùa xuân tươi đẹp.

Leave a comment