Văn nghị luận lớp 9: Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (Trích “Vũ trung tùy bút”)
Contents
I. Giới thiệu một vài nét về Phạm Đình Hổ
Phạm Đình Hổ (1768-1839) tự là Tùng Niên, người làng Đan Loan, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương. Ông sống vào cuối thời Lê Trịnh, đời Tây Sơn và triều Nguyễn, một giai đoạn lịch sử Việt Nam đầy biến động dữ dội.
Sinh trưởng trong một gia đình quý tộc – quan lại, ông không đỗ đạt cao, tuy vậy ông vẫn nổi tiếng như một nhân tài Bắc Hà. Sống lịch lãm, học- vấn uyên bác, coi thường danh lợi. Năm 1821, Minh Mệnh triệu ông ra làm quan; 5 năm sau đã thăng chức Tế tửu Quốc tử giám; nhưng cáo bệnh xin từ quan về sống ở Thăng Long.
Phạm Đình Hổ là một nhà vãn để lại nhiều tác phẩm lớn, rất có giá trị về văn hóa, lịch sử và văn chương. Tất cả đều viết bằng chữ Hán, chỉ mới có 2 tác phẩm được dịch ra tiếng Việt: “Vũ trung tùy bút” và “Tang thương ngẫu lục” (cuốn sau viết chung với Nguyễn Án).
Văn thơ Phạm Đình Hổ rất độc đáo, sắc sảo, thể hiện một tầm nhìn sâu rộng, một tâm hồn thanh cao, thể hiện cốt cách tuyệt đẹp của kẻ sĩ.
II. Hai nội dung nổi bật của “Chuyện củ trong phủ chúa Trịnh”.
1. Thói ăn chơi xa xỉ, vô độ của chúa Trịnh và bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa:
– Trịnh Sâm thích đi chơi ngắm cảnh đẹp ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy.
– Việc xây dựng đình đài cứ làm liên tục.
– Mỗi tháng ba bôn lần, chúa ra chơi cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ. Cảnh binh lính dàn hầu vòng quanh hồ, cảnh các nội thần cải trang thành đàn bà bày hàng bán chung quanh hồ, cảnh thuyền ngự đi và bọn quan lại hỗ tụng đại thần ghé vào bờ mua bán, cảnh bọn nhạc công hòa nhạc ở chùa Trấn Quốc, tất cả đều nói lên cuộc sông ăn chơi cực kì xa xỉ của chúa Trịnh và bọn quần thần.
2. Bọn quan lại ‘hầu cận” trong phủ chúa đã “nhờ gió bẻ măng” nhũng nhiễu, vơ vét của nhân dân, chẳng khác nào lủ cưóp ngày.
– “Chúa đều sức thu lấy” hết “không thiếu một thứ gì”, những loại trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian. Tước đoạt cả những cây cảnh “rễ dài đến vài trượng”, phải một đội cơ binh mới khiêng nổi.
– Núi non bộ “điểm xuyết bày vẽ” trong phủ chúa.
– Bọn họan quan, hoặc dùng hai chữ “phụng thủ” để cướp không chậu hoa, cây cảnh, chim tốt khiếu hay của mọi nhà. Chúng làm tiền, dọa dẫm bằng mọi thủ đoạn ma quái. Chúng phá hủy nhà tường của dân để khiêng vật “phụng thủ” ra! Nhiều gia đình phải đập bỏ núi non bộ, phá bỏ cây cảnh “để tránh khỏi tai vạ”.
– Đêm đêm nghe tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề trong phủ chúa “ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kể thức giả biết đó là triệu bất tường!”. Triệu bất tường là dấu hiệu không lành, điềm gở báo trước. Âm thanh “vỡ tổ tan đàn” của chim kêu vượn hót ran bôn bề “ấy chính là lời ca thán căm thù của nhăn dân đối với ngai vàng rpục nát của vua Lê – chúa Trịnh”. Nó dự báo sấm sét sắp giáng xuống đầu bọn chúng. Các sự kiện lịch sử: loạn kiêu binh, Nguyễn Huệ ra Bắc Hà lần thứ nhất (1788), Lê Chiêu Thống rước 29 vạn quân Thanh sang xâm lược nước ta và bị đánh tan tành – đó là “triệu bất tường” đối với chúa Trịnh, là ngày tàn bạo chúa!
III. Phát biểu cảm nghĩ của em về “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh”
(trích “Vũ trung tùy bút”) của Phạm Đình Hổ.
Nhắc tới Phạm Đình Hổ (1768-1839), người đời nhớ tới tác phẩm “Vũ trung tùy bút” của ông. Một bút pháp nghệ thuật tinh tế, tài hoa, một phong thái thư nhàn cao nhã, ông tiêu biểu cho cốt cách kẻ sĩ Bắc Hà cuối thời Lê – Trịnh và thời kì đầu nhà Nguyễn.
“Chuyện cữ trong phủ Chúa Trịnh” là một trang tùy bút đặc sắc, rút trong “Vũ trung tùy bút” của Phạm Đình Hổ.
Tùy hứng mà viết, tùy bút mà viết, cảm hứng dào dạt, dâng trào. Cảnh ăn chơi xa hoa của Chúa Trịnh Sâm, cảnh bán hàng của bọn nội thần nội thị, cảnh tấu nhạc của bọn nhạc công cung đình tại chùa Trấn Quốc nơi Hồ Tây giữa thế kỉ 18, sự nhũng nhiễu của bọn họan quan khắp chôn dân gian… đã được tác giả “Vũ trung tùy bút” chấm phá một vài nét, thế mà ta chỉ đọc qua một lần là có thể nhớ mãi.
“Chuyện củ…” đã xảy ra vào 2 năm Giáp Ngọ – Ất Mùi (1774-1775), đó là lúc Đàng Ngoài “vô sự”, là những năm tháng hoàng kim của Thịnh Vương (Trịnh Sâm); khi mà người ngọc Đặng Thị Huệ được Chúa sủng ái trở thành nguyên phi. Trịnh Sâm sông trong xa hoa: “thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Chúa ra chơi cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ mỗi tháng ba bốn lần”. Cảnh đón tiếp với các thứ nghi lễ thật tưng bừng, độc đáo. Có “binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ”. Có tố’ chức hội chợ, do quan nội thần cải trang “đầu bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hóa chung quanh hồ để bán”. Thuyền ngự đi tới đâu thì các quan hỗ tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các thứ… Gác chuông chùa Trấn Quốc trở thành nơi hòa nhạc của bọn nhạc công cung đình. Đình đài, cung điện được xây dựng “liên tục” nhằm thỏa mãn cuộc sống ãn chơi của vua chúa và bọn quan lại thời Lê – Trịnh. Bao nhiêu tiền của, vàng bạc, châu báu, nước mắt mồ hồi của nhân dân bị bòn vét đến kiệt cùng. Phạm Đình Hổ đã được mắt thấy tai nghe những “chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh” nên cách kể, cách tả của ông rất sống.
Để được sông trong xa hoa, hưởng lạc đế vương, từ Chúa đến quan đều trở thành bọn cướp ngày ra sức hoành hành, trấn lột khắp chốn cùng quê. Chúa thì “sức thu lấy” trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian “không thiếu một thứ gì”. Có những cây cảnh “cành lá rườm rà… như cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng” phải dùng đến một cơ binh mới khiêng nổi, từ bên Bắc chở qua sông đem về. Trong phủ chúa “điểm xuyết” bao núi non bộ trông lạ mắt như “bến bể đầu non”. Vườn ngự uyển, trong những đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bôn bề, hoặc nửa đêm “ồn ào như trận mưa sa, gió táp, vỡ tổ tan đàn”. Nếu như trong “Thượng kinh kí sự” Lê Hữu Trác ngạc nhiên viết:
“Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen.
Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào”.
thì ở đây, Phạm Đình Hổ ái ngại nghĩ: “kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”. Cuộc sống cực kì xa hoa ấy là nguyên nhân cho sự sụp đổ ngai vàng ngày một ngày hai sẽ đến. Đó là năm 1782, Trịnh Sâm qua đời; loạn kiêu binh nổ ra, kinh thành Thăng Long bị đốt phá tan hoang; năm 1786, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà lần thứ nhất, cơ nghiệp họ Trịnh tan tành trong nháy mắt! “Cái triệu bất tường” mà Phạm Đình Hổ nghĩ tới thật linh nghiệm. Quy luật cuộc đời vô cùng sòng phẳng, cay nghiệt:
“Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh.
Nghìn vàng khôn đổi được mỉnh Lầu ca viện hát, tan tành còn đâu?”
(“Văn chiêu hồn” – Nguyễn Du)
Bọn họan quan trong phủ Chúa vừa trắng trợn vừa xảo quyệt, như dân gian đã khinh bỉ chửi vào mặt: “Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Chúng dùng thủ đoạn “nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm”. Chỉ bằng hai chữ “phụng thủ” biên ngay vào chậu hoa cây cảnh, chim tốt khiếu hay của bất cứ nhà nào là chúng cướp được. Chúng còn lập mưu “đêm đến” cho tay chân sai lính lẻn vào “lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa dầm lấy tiền”. Chúng ngang ngược “phá nhà hủy tường” của dân để khiêng hòn đá hoặc cây cối gì mà chúng cướp được! Đốì với nhà giàu thì chúng lập mưu vu cho là “giấu vật cung phụng” để hành hạ, để làm tiền, nhiều người phải “bỏ của ra kêu van chí chết”, có gia đình “phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ”.
Gia đình tác giả thuộc hàng quan lại, quý tộc thời Lê – Trịnh! Trước sự nhũng nhiễu hoành hành, mẹ Phạm Đình Hổ là bà Cung Nhân phải sai người nhà chặt cây lê “cao vài mươi trượng, lúc nở hoa, trắng xóa thơm lừng”, hai cây lựu trắng, lựu đỏ “lúc ra quả trông rất đẹp”. Chi tiết này, tình tiết này rất sống, rất thực. Tác giả đã kể lại một chuyện có thật của gia đình mình ở phường Hà Khẩu để vừa tạo nên niềm tin cho người đọc mai hậu, vừa phê phán bộ mặt tham lam, ghê tởm của bọn quan lại thời Lê – Trịnh, vạch trần sự thối nát trong phủ Chúa.
Trang tùy bút “Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh” của Phạm Đình Hổ có giá trị lịch sử sâu sắc, nó đã làm hiện lên cảnh vật và con người, cuộc sống xa hoa ăn chơi của vua chúa, hành động ăn cướp, làm tiền trắng trợn của bọn quan lại trong phủ Chúa.
Ngòi bút của Phạm Đình Hổ rất trầm tĩnh và sâu sắc. Mọi cảm xúc, ý nghĩ của ông về nhân tình thế sự được gửi gắm qua những chi tiết, tình tiết, mẩu chuyện rất sống, rất chọn lọc, đậm đà, nhã thú.