Vẻ đẹp của trăng và của nhân vật Nguyệt hòa quyện, bổ sung cho nhau khiến truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu trở thành một khúc trữ tình xúc động về sự bất diệt của cuộc sống, tình yêu, tuổi trẻ giữa đạn bom tàn phá trong những năm thán
Các ý chính:
1. Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
Mảnh trăng cuối rừng là một trong những truyện ngắn hay nhất của Nguyễn Minh Châu những năm chống Mĩ cứu nước và là truyện ngắn vào hang tiêu biểu của văn học giai đoạn này: ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng và vẻ đẹp tâm hồn của người Việt Nam trong chiến đấu. Đến với Trường Sơn, quê hương của biết bao huyền thoại ngay trong cuộc chiến tranh ác liệt, nhà văn cố gắng “tìm cái hạt ngọc ẩn giấu trong bể sâu tàm hồn con người” và chính Trường Sơn đã đem đến cho Nguyễn Minh Châu những dòng cảm hứng riêng. Không nhấn mạnh nhiều đến sự ác liệt, gian khổ, mặc dù có nói đến ác liệt và gian khổ, cũng không hướng về những bi kịch thương đau, Nguyễn Minh Châu trong thiên truyện Mảnh trăng cuối rừng đã dồn niềm say mê của mình vào lời ca ngợi sự kì diệu của cuộc sống, của con người, sự bất diệt của tình yêu, tuổi trẻ. Đó là lí do khiến nhà văn dụng công xây dựng thật đẹp hai hình tượng chính: trăng và cô gái mang tên trăng – Nguyệt. Hai hình tượng tưởng như không liên quan gì đến nhau nhưng thực tế đã không thể tồn tại thiếu nhau và đồng hiện lên trong một vẻ đẹp chung vừa hiện thực vừa pha ít nhiều kì ảo.
2. Vẻ đẹp của trăng trong ý nghĩa hai mảnh trăng cùng ẩn hiện. Hình tượng “trăng” trong truyện có một ý nghĩa đặc biệt: một hình tượng vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Không phải ngẫu nhiên mà trăng đi vào tựa đề tác phẩm.
2.1. Trước hết, tác giả dành cho trăng – với tư cách một vật thể thiên nhiên – nhiều dòng văn vào hàng đẹp nhất trong thiên truyện, khi thì tựa hồ một ngọn đèn xanh, khi thì “sáng trong như một mảnh bạc” ở cuối trời.
– Tác giả làm cho người đọc thấy trăng (như một người đẹp, cái đẹp) lung linh ẩn hiện cuối dải đại ngàn, gần đấy mà xa đấy. Vẻ đẹp trăng non đầu tháng gợi vẻ đẹp ban sơ, vừa thực vừa chập chờn mờ ảo.
– Giả thử mất đi cái ánh trăng mơ hồ, huyền ảo kia thì thiên truyện cơ hồ mất hết cả không khí và sự gợi cảm đầy chất thơ của nó.
2.2. Vẻ đẹp của trăng – vừa gợi yếu tố thời gian, vừa chỉ một không gian nghệ thuật trữ tình – còn làm đẹp thêm vẻ đẹp của con người, của tình người (cảm hứng chủ đạo của tác phẩm).
– Mảnh trăng hiện khuất chập chờn, gợi sự kiếm tìm, làm cho “trò chơi ú tim” giữa hai người yêu nhau càng thi vị. Trăng hiện ra khi anh lái xe vừa biết tên cô gái là Nguyệt và mời cô lên cabin ngồi cạnh mình mà lòng vẫn phân vân.
– Nhờ có ánh trăng soi, tình cảm của anh bên người con gái ấy càng trở nên trọn vẹn. Trăng “đứng yên ở cuối trời, sáng trong như mảnh bạc” cho Lãm cảm nhận tứ thơ tình yêu từ Nguyệt: đắm say “gần như mề muội”, cảm giác “choáng ngợp như vừa trông vào ảo ảnh”…
– Với Nguyệt, vẻ đẹp của trăng và người thật sự hòa quyện vào nhau. Trăng cũng đồng thời là tên cô gái. Cô gái trẻ trung, còn trăng là trăng non đầu tháng. Khung cửa xe phía Nguyệt ngồi lồng đầy bóng trăng. Ánh trăng của đất trời và ánh trăng của lòng người làm sáng lên từng sợi tóc trong mái tóc dày của Nguyệt. Ấn tượng cuối cùng của anh lái xe về cô gái ấy là “khuôn mặt đẹp lộng lẫy đầy ánh trăng”. Mảnh trăng cuối rừng là biểu tượng của vẻ đẹp tiềm ẩn của Nguyệt. Đây là lúc biểu tượng hòa nhập vào nhân vật, làm cho vẻ đẹp chân dung và vẻ đẹp tinh thần của Nguyệt hiện ra rạng rỡ.
2.3. Ánh trăng đã tạo ra một không gian riêng bao bọc lấy câu chuyện và những nhân vật, đặc biệt là cô gái mang tên trăng, trong ánh sáng dịu dàng, trong trẻo và huyền ảo, tạo nên cảm giác bay bổng diệu kì.
– Trăng càng trở nên đẹp hơn, trọn vẹn hơn khi tác giả đặt nó vào cuộc ném bom tọa độ. Cái đẹp ở đây được hiện lên đối lập với sự hủy diệt tàn bạo của quân thù nên càng đẹp hơn, lộng lẫy hơn.
3. Vẻ đẹp của cô gái mang tên trăng-. Tương ứng với câu chuyện mang tên Mảnh trăng cuối rừng và vẻ đẹp của trăng mà tác giả dụng ý tô điểm, là vẻ đẹp tinh khiết, trong trắng, sáng ngời của cô thanh niên xung phong mang tên trăng và có vẻ đẹp tựa như trăng ấy.
3.1. Trước hết, cô có một ngoại hình rất đẹp. Từ “tiếng nói trong lắm”… đến “gót chân hồng hồng…”, từ dáng người, mái tóc đến đôi mắt dưới trăng trong như là ảo ảnh một vẻ đẹp giản dị, “mát mẻ như sương núi tỏa ra từ nét mặt, lời nói và tấm thân mảnh dể”. Đó là vẻ đẹp “thanh khiết”, thanh thoát đối lập với cảnh chiến tranh ngột ngạt.
– Một vẻ đẹp đầy sức quyến rũ, như nâng niu, siêu thoát qua đôi mắt nhìn lãng mạn. Trên chặng đường tiếp theo, Nguyệt hiện lên trong vẻ đẹp có sức quyến rũ rất riêng, như thể là trăng, rồi lại không phải là trăng.
3.2. Nhân vật Nguyệt được dựng trên hướng cảm xúc cố gắng “đi tìm cái hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Nguyệt chẳng những đẹp mà còn khéo léo, dũng cảm, quên mình vì đồng đội. Đó là vẻ dẹp anh hùng, đôn hậu.
– Cô chủ động, bình tĩnh, tự tin, dày dạn kiụh nghiệm trong việc xử trí các tình huống khó khăn, quên mình cứu xe. Ấn tượng đặc sắc nhất về sự dũng cảm của Nguyệt là ở nụ cười tươi tỉnh lúc bị thương. Cái đẹp đã không sợ cái bạo tàn, cái đẹp đã vượt lên và chiến thắng vết thương đau.
– Ở Nguyệt, còn là một biểu hiện đẹp của đức tính vị tha, đức hi sinh một phẩm chất cực kì quí báu trong hoàn cảnh chiến tranh. Người con gái đầy nữ tính ấy biết quan tâm, biết sống vì người khác. Nguyệt nói như “thanh minh” với Lãm: “Chúng nó ném bom luôn, chúng em đã rải bao nhiêu đá mà đường sá còn ra thế!”. Chút áy náy rất đẹp của một người biết mình đã không thể làm cho người khác bớt phần khó nhọc, gian lao. Trong bom đạn, Nguyệt đã đẩy Lãm vào giữa hai gốc cây to bằng một sức khỏe lạ thường và đứng chắn phía ngoài, hành động mang ý nghĩa cao quí của sự hi sinh.
3.3. Nét đẹp đẽ, kì diệu nhất ở tâm hồn người con gái ấy là “cái sợi chỉ xanh nhỏ bé và óng ánh” của tình yêu và niềm tin cuộc sống.
– Một tình yêu thật đẹp, son sắt, bền chặt và cũng thật khác thường. Một tình yêu phi thường dựa trên niềm tin cuộc sống, đồng đội, hòa trộn với tình yêu Tổ quốc và tình yêu lí tưởng chiến đấu vì độc lập, tự do. Chính tình yêu và niềm tin vào cuộc sống đã khiến cô gái dám một mình trong đêm đi nhờ xe vượt đường rừng, ngầm đá, vượt qua bom đạn… để rồi sáng ngời như vầng trăng thiêng.
– Đặc biệt ở hình ảnh cuối cùng: cái sợi chỉ xanh óng ánh không phai nhạt, đứt đoạn qua thời gian và bom đạn kẻ thù lại được nhắc đến, được Lãm suy ngẫm một lần nữa bên chiếc cầu lớn qua sông bị bom cắt ngọt làm đôi. Mối liên quan tương phản ấy có một ý nghĩa tượng trưng: sự chiến thắng của tình yêu trước chiên tranh, của sự sống trước cái chết mà kẻ thù cố tình gieo rắc.
4. Nhân vật Nguyệt đẹp từ ngoại hình đến tâm hồn, tính cách, nhất là với tình yêu trong sáng, bền chặt, niềm tin vào cuộc sống dẫu qua bao nhiêu bom đạn, chết chóc và thời gian vẫn không suy suyển. Việc xây dựng hình tượng nhân vật Nguyệt mang vẻ đẹp tuyệt đối, giàu chất lí tưởng đã tạo nên tính chất trữ tình và lãng mạn cho tác phẩm.
– Dựng lên bên cạnh mảnh trăng, hình tượng người con gái tên trăng và câu chuyện tình của cô, Nguyễn Minh Châu như muốn gửi đến chúng ta một thông điệp của niềm tin yêu và hi vọng.
– Với Nguyễn Minh Châu, chiến tranh – bên cạnh những đổ vỡ, tàn phá, mất mát – còn là nơi con người khám phá ra nhau, phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn của nhau, để yêu nhau, để giữ mãi cái giai điệu trữ tình đầy xúc động, “cái sợi chỉ xanh nhỏ bé và óng ánh” của tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống.
– Khúc trữ tình đầy xúc động viết về nơi khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh ấy được thể hiện trong một cách viết vừa hiện thực vừa kì ảo, như thực, như mơ đã góp phần làm nên sức quyến rũ của hình tượng cô gái và vầng trăng. Hai hình ảnh trăng và Nguyệt cứ sáng dần lên trong quá trình kể chuyện và ngày càng lung linh làm say lòng người đọc, hóa thân thành ước nguyện trong mỗi con người:
“Trăng viên mãn cuối trời, đêm đêm em có nhớ
Mặt trăng từng khuất nửa ở trong nhau”
(Hai nửa vầng trăng – Hoàng Bửu)