Vì sao trong bài Giải đi sớm, ở khổ 1 Bác đùng chừ “chinh nhân”, đến khổ 2 lại dùng chữ “hành nhân”?
Vì sao trong bài Giải đi sớm, ở khổ 1 Bác đùng chừ “chinh nhân”, đến khổ 2 lại dùng chữ “hành nhân”? Lí giải và phân tích qua bài thơ. Từ đó anh (chị) cảm nhận được gì về vẻ đẹp của tư thế chiến sĩ và tâm hồn thi sĩ của Bác trên đường đi đày gian khổ. YÊU CẦU 1. Lí giải đúng và phân tích rõ điều lí giải đô qua bài thơ: Bác dùng hai từ “chinh nhân” và “hành nhân” trong hai khổ thơ là hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh trong hai thời điểm khác nhau: đêm tôi, gió lạnh, đường xà và bình minh rực hồng, thời tiết ấm áp. Chữ “chinh nhăn” gợi tư thê người chiên sĩ chủ động vượt khó khăn, chiến thắng hoàn cảnh, còn chữ “hành nhân” lại nối lên tâm hồn nghệ sĩ của Bác cũng dào trước cảnh bình minh tươi đẹp.
2. Từ việc lí giải trên đây, cảm nhận được vẻ đẹp của Bác trong tư thể chiến sì và tâm hồn nghệ sĩ trên đường giải tù. BẢI LÀM
“Giải di sớm” là bài thơ hay trong tập “Ngục trung nhật kí”. Như đầu đề của nó, bài thơ ghi lại một trong nhiều cuộc chuyển lao mà Bác phải trải qua suốt “Mười bốn trăng tê tái gông cùm” nơi quê người đất khách. Bài thơ cho ta thấy phần nào phẩm chất cao đẹp của bậc “đại nhân, đại trí, đại dũng’. Đặc biệt, thi phẩm còn thể hiện khả năng dùng ngôn từ chính xác, linh hoạt của Người:
Giải đi sớm Gà gáy một lần đêm chửa tan Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn Người đi cất bước trên đường thẳm Rát mặt đêm thu trận gió hàn. Hừng Đông màu trắng chuyển sang hồng Bóng tối đêm tàn, chốc sạch không Hơi ấm bao la trùm vũ trụ Người đi thì hứng bỗng thêm nồng.
Hai khổ thơ trên, thực ra là hai bài tứ tuyệt. Đứng riêng, mỗi bài thơ đều có tính độc lập. Đứng chung, hai bài bổ sung nghĩa cho nhau, là hai mặt của một quá trình vận động. Tiếp cận với văn bản bài thơ, ta thấy hình ảnh nhân vật trữ tình có sự chuyển biến thật bất ngờ trong hai khổ thơ – bất ngờ nhưng vẫn hợp lí, liền mạch: ở khổ thơ đầu, nhân vật trữ tình được nhắc tới bởi cụm từ “chinh nhân”, đến khổ thứ hai, “hành nhân” đã thay thế cho “chinh nhân”. Tại sao lại có sự biến đổi đó? Muốn giải thích chính xác điều này, có lẽ ta phải căn cứ vào “hoàn cảnh chung” của từng bài thơ, của người tù:
Gà gáy một lần đêm chửa tan Chòm Sao đưa nguyệt vượt lèn ngàn Người đi cất bước trên đường thẳm Rát mặt đêm thu trận gió hàn.
Câu thơ đầu đọc lên tưởng chỉ mang giá trị thời gian, không mang một cảm xúc, thái độ nào cả. Nhưng, nó chính là sự chuẩn bị cho “chinh nhân” xuất hiện. Bởi, ở một tầng sâu hơn, Người đã “quên” đi một rách có ý thức hoàn cảnh của mình: thực tại tù đày, gông cùm. Chắc chắn lúc này, hoàn cảnh Người phải chịu đựng không có gì dễ chịu hơn cảnh:
“Đôi ngựa” ngày đi chổng nghỉ chân Đêm “gà năm vị” lại thường ăn (Đêm ngủ ở Long Tuyền). Cho nên, phải có một bản lĩnh thép vĩ đại mới có thể quèn đi thục tại tàn bạo, lạnh lùng, để “ghi” lại nhật kí một cách tự nhiên, khách quan như thế. Tiếng gà ờ đây ghi lại thời gian và có một ý nghĩa thật lớn lao: báo hiệu Ịnột ngày mới sắp bắt đầu, gắn liền với sự sống, phá đi cái âm u, tịch mịch của đêm tôi…
Đến câu thơ thứ hai, cảnh vật bắt đầu hiện lên với vé vui vầy, ấm áp… nhưng vần là sự triển khai, tiếp nội ý thơ “Giải di sớm”:
Chòm sao đưa nguyệt vượt lèn ngàn (Quần tinh ủng nguyệt thưởng thu san)
Câu thơ trước hết mang ý nghĩa tả thực – bị giết từ rất sớm (trong, sao chỉ thực sự “quần”, “ủng” vào lúc khuya khoát), Nhưng, cảnh vật phần nào được giám đi sự khác nghiệt, ấy là sự quây quần của trăng sao (bản dịch đánh rơi ý này), nó khác với sự heo hút vắng lặng khi Kiều trôn khỏi nhà Hoạn Thư trước đó hơn một thế kỉ: Mịt mù cát dặm đồi cây Tiếng gà điểm nguyệt dấu giày cầu sương.
Có lẽ trong văn chương cổ kim, ấy là hai dòng tuyệt bút về sự vắng lặng. Rõ ràng có .người đi đấy mà không thấy người đâu, chỉ vài vết giày in trên mặt cầu đẫm sương. Và nổi bật trên khung cảnh đó, là tâm trạng bơ vơ, hiu quạnh của Thúy Kiều…
Quay trở lại bài thơ, đến câu thứ ba và tư, tạ mới thấy hình ảnh người tù hiện lên qua các hình ảnh đầy ấii tượng: