Văn mẫu THPT: Từ hai đoạn thơ dưới đây, hãy chỉ rõ dạng “vân chữ” “không trộn lẫn” của mỗi nhà thơ

0

Trong bài thơ Vân chữ, Lê Đạt viết:
Mỗi công dân đêu có một dạng vân tay
Mỗi người nghệ sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn.
Từ hai đoạn thơ dưới đây, hãy chỉ rõ dạng “vân chữ” “không trộn lẫn” của mỗi nhà thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
(Tây Tiến-Quang Dũng)
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thìa, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.

(Việt Bắc-Tố Hữu)

BÀI LÀM THAM KHẢO

Cõi đời là cõi hữu hạn. Nhà soạn nhạc thiên tài Beethoven dừng chân tại kiếp sống này và để lại cho đời bản Sonata Ánh trăng – bản giao hưởng định mệnh. Nhà văn Banzac trước khi về với đất mẹ dấu yêu cũng ghi lại tên mình trên tượng đài văn học với Tẩn trò đời. Sự đời thương hải tang điền, rồi một ngày kia dòng sông năm tháng sẽ cuốn đi tất cả. Những thành quách lâu đài, những kì quan của tạo hóa rồi cũng sẽ dần phôi pha… Thế nhưng, giữa dòng chảy nghiệt ngã ấy, người đời vẫn nhớ đến một ngòi bút Quang Dũng tài hoa, một tiếng thơ thiết tha Tố Hữu, đúng như Lê Đạt viết:

Mỗi công dân đều có một dạng vân tay

Mỗi người nghệ sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ

Không trộn lẫn.

Quan điểm này đã được thể hiện rõ qua đoạn thơ của nhà thơ Quang Dũng trong Tây Tiến.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi?

Và đoạn thơ của nhà thơ Tố Hữu trong Việt Bắc

Nhớ gì như nhớ người yêu

Ngòi Thìa, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.

Mỗi con người sinh ra đều có một dấu vân tay riêng, mang những đường nét, hình dạng đặc thù, không giống nhau với bất kì ai cho dù đó là anh chị em đồng sinh. Vân tay là dấu hiệu, cũng là cơ sở chuẩn xác để xác minh danh tính của một công dân, được lưu trữ để xác thực nhân thân, phân biệt với người khác. Với cách nói đầy hình ảnh gợi sự liên hệ tương đồng với vân tay. Nhà thơ là danh hiệu cao quý mà không phải ai cũng có, dù cho Bản chất cùa môi người là nghệ sĩ (M.Garti), dù cho ai ai cũng có một nhà thơ ẩn khuất trong tâm hồn mình. Hai chữ tài năng đâu phải nhà thơ nào cũng có được. Chỉ có những nhà thơ thật sự xuất chúng mà theo Lê Đạt là có “vân chữ” riêng mới có thể xứng đáng với tiếng gọi “tài năng” này. Với Lê Đạt, nếu như “vân tay” là những đường nét chỉ có duy nhất ở mỗi người, dựa vào đó để phân biệt người này với người khác thì để phần biệt nghệ sĩ thứ thiệt với người nghệ sĩ tầm thường, “vân chữ” là một công cụ đắc lực. Rất nhiều nhà thơ đã sinh ra và ở lại giữa cuộc đời này nhờ vào “vân chữ” – một giọng nói riêng, phong cách nghệ thuật độc đáo và riêng biệt. Cũng giống như vân tay, phong cách nghệ thuật của mỗi người cũng một khác. Đây cũng là lí do cốt yếu tạo nên sự đa dạng cho văn chương.

Sáng tác thơ là quá trình tạo nên một tác phẩm nghệ thuật bằng ngôn từ nhảm truyền tải cảm xúc hay một nội dung ý nghĩa nào đó. Nhưng đặc tính của nó không nằm trong thông điệp tác giả gửi gắm mà nó nằm ở lớp vỏ ngôn từ. Ngôn từ vừa là phương tiện thể hiện, vừa là chính bản chất của một tác phẩm thi ca. Một bài thơ xuất sắc là một bài thơ mà việc bớt đi. thêm vào hay thay đổi dù một chữ cũng làm giảm đi giá trị của nó. Bởi vậy chắt lọc và sử dụng ngôn từ đạt đến tinh hoa thẩm mĩ đều là việc mà bất cứ nhà thơ nào cũng phải hướng tới, một khi đã muốn khẳng định và duy trì sự hiện tồn của mình trong một nền văn học. Không chỉ vậy, việc chắt lọc và sử dụng đó còn cần mang một cá tính sáng tạo riêng, một phong cách không trùng lặp, đó chính là “vân chữ” mà Lê Đạt nhắc đến. Từ lịch sử văn học thế giới nói chung và lịch sử văn học Việt Nam nói riêng, có thể thấy khi nhà thơ đáp ứng được những đòi hỏi đó, thì tác phẩm và tên tuổi của họ sẽ trường tồn mãi với thời gian. Tiêu biểu cho nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 là hai tác giả Quang Dũng và Tố Hữu, cho dù cùng viết về nỗi nhớ tha thiết những địa danh từng công tác, gắn bó trong suốt những tháng ngày gian khổ mà hào hùng cả dân tộc cùng tham gia kháng chiến chống Pháp, song mỗi nhà thơ đều có một nét đẹp rất riêng, rất độc đáo trong sáng tác, thể hiện qua đoạn trích của hai bài thơ Tây TiếnViệt Bắc.

Khổ thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là một minh chứng rõ nét cho “vân chữ” tài tình của Quang Dũng. Bằng nỗi nhớ về đồng đội, về chiến trường năm nào, nhà thơ bật lên một tiếng gọi tha thiết, bâng khuâng khi đứng trước kỉ niệm đã xa:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Nhịp thơ êm đềm, giàu cảm xúc biểu cảm được người thi sĩ trở về với cảnh thiên nhiên Tây Bắc, với dòng sông Mã hiền hòa chảy qua Việt Nam rồi trở về với biển khơi xanh thẳm. Đó là dòng sông in dấu bao dấu chân của đoàn quân “7ạy Tiếrì’, là chứng nhân bao kỉ niệm buồn vui của những người lính trẻ kiên cường, là người bạn tiễn đưa bao anh lính trẻ về với đất mẹ, về với cõi vĩnh hằng. Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! – ta cảm nhận được sự dồn nén trong một câu thơ bảy chữ ngắn ngủi là cả một nồi nhớ cồn cào, da diết khôn nguôi, vần “ơi” ngân nga, khiến nỗi nhớ dường như kéo dài miên man. Và nỗi nhớ ấy lại càng trải rộng thêm ra, trùm phủ khắp không gian núi rừng miền Tây khi chữ “nhớ” được lặp lại hai lần trong câu thơ thứ hai.

Với Quang Dũng, cả sông Mã và Tây Tiến đều đã “xa rồi”. Hai tiếng “xa rồi” khác gì đâu tiếng thở dài, nuối tiếc về hình ảnh dòng sông giờ chỉ còn lại trong kỉ niệm, trong ký ức của người ra đi, thức dậy trong lòng thi nhân nỗi nhớ. Thông thường, người ta thường nhớ về kỉ niệm để lại dấu ấn sâu sắc nhất với mình. Đối tượng đầu tiên trong nỗi nhớ của Quang Dũng là nhớ về rừng núi:

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Cỏ lẽ bởi trong suốt cuộc hành quân cùng binh đoàn Tây Tiến, rừng núi chính là khung cảnh đặc trưng nhất, quen thuộc nhất đối với Quang Dũng và đồng đội. Rừng núi in đậm bao niềm vui nỗi buồn của người lính. Đó là nỗi nhớ về núi non Tây Bắc hùng vĩ năm nào, là địa bàn hoạt động của đoàn quần Tây Tiến, nơi chôn bao lớp xác quân thù và cũng là người bạn đồng hành, chở che cho những anh lính trên đoạn đường hành quân đầy gian khổ:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đả ta cùng đảnh Tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù.

(Việt Bắc-Tố Hữu)

Một câu thơ thôi mà biết cao tình cảm dồn nén trong điệp từ “nhớ”, từng lớp sóng của nỗi nhớ dào dạt, mạnh mẽ dâng trào trong tâm hồn đang hướng về phương xa để rồi thúc giục ngòi bút viết lên từng dòng thơ đong đầy cảm xúc, gọi tên nỗi nhớ vô hình: “nhớ chơi vơi”. Cái tài tình của Quang Dũng là đã miêu tả nỗi nhớ đó là “nhớ chơi vơi” – một hình ảnh thơ đầy sáng tạo, độc đáo và đem lại một hiệu quả vô cùng đắt giá. Từ “chơi vơi” cùng từ “ơi” ở câu trên vang vào thơ như một tiếng vọng, tạo ra một sự âm vang, gợi lên cái phiêu diêu, cái “chơi vơi” của nhà thơ giữa những hình ảnh của rừng núi trở về, hiện lên sống động rợn ngợp khắp không gian. Một người ngoài cuộc hẳn không thể có nồi nhớ ấy. Chỉ có Quang Dũng với nỗi lòng của mình mới có nỗi nhớ ấy mà thôi. Đây không phải là lần đầu tiên người đọc bắt gặp nỗi nhớ ấy trong thơ, cũng đồng nghĩa với việc trước Quang Dũng cũng đã có người gọi tên nỗi nhớ ây rồi. Ca dao xưa từng nói: Ra về nhớ bạn chơi vơi. Đến Xuân Diệu, nhà thơ cũng từng giãi bày: Tương tit nâng lòng lên chơi vơi (Tương tư chiều).

Khác với nỗi nhớ về một người, nỗi nhớ về tình riêng ấy, nỗi “nhớ chơi vơi” của Quang Dũng kết thúc bằng hai âm mờ mang âm hưởng vọng dài, lan tỏa. Tiếng gọi như vọng ra từ những vách đá của núi rừng Tây Bắc, như vọng ra từ cõi nhớ ngàn trùng của nhà thơ. Câu thơ đọc lên nhẹ tênh, vô hình vô lượng như lại có sức ám ảnh vô cùng.

Dòng cảm xúc bắt nhịp thời gian và không gian đưa nhà thơ trở về với những địa danh gắn liền với kỉ niệm:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Quang Dũng không miêu tả thẳng những khó khăn gian khổ của người lính mà chỉ miêu tả cái hoang vu khắc nghiệt của một vùng rừng núi hoang dã; song đọc đoạn thơ ai cũng hiêu, cũng có thể tường tượng ra cuộc sống chiến đấu của người lính Tây Tiến. Những địa danh “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông”,… đứng đầu dòng thơ dẫn dắt người đọc hướng về miền đất xa xôi, hoang dã, mới nghe mà đã thấy chùn chân mỏi gối rồi. Câu thơ chùng xuống, đều đều, gợi lên sự mỏi mệt, bải hoải, nặng nề, khiến ta tưởng chừng như đoàn binh Tây Tiến sắp ngã xuống, sắp bị lấp chìm đi trong sương núi. Riêng từ “mỏi” cũng đủ để tái hiện lại hiện thực gian nan, vất vả của cuộc đời người lính trong những năm tháng chiến đấu.

Âm điệu bài thơ bồng trở nên nhẹ bâng, bồng bềnh bởi một câu thơ nhiều thanh bằng: Mường Lát hoa về trong đêm hơi. Trong thời binh lửa tao loạn là thế nhưng người lính vẫn rộng mở tâm hồn, tinh tế đón nhận vẻ đẹp hoa về trong đêm hơi. Đó là hương hoa đêm của núi rừng đưa hương ngào ngạt, hay là hình ảnh những ngọn đuốc hoa trên tay người lính cầm trong cuộc hành quân giữa đêm dài? Có lẽ hiểu theo nghĩa nào cũng đúng, hình ảnh nào cũng rất hay, rất đẹp, rất lãng mạn hiện lên trong một không gian mờ ảo, phiêu bồng “đêm hơi”. Thật đẹp làm sao hai chữ “hoa về”! Đó là những bông hoa rìmg Tây Bắc rung rinh chào đón những người con ưu tú của dân tộc. Đó là những ngọn đuốc hoa của người dân núi cao đón bộ đội về với rừng, với bản! Tứ thơ của Quang Dũng hàm chứa tất cả, làm ấm lòng người chiến sĩ trong những ngày tháng gian lao. Hình ảnh thơ như tượng trưng cho sự lạc quan, yêu đời trong tâm hồn người lính trẻ, mãi là vẻ đẹp lãng mạn của những người thanh niên đất Hà Thành.

Nỗi nhớ dựng kỉ niệm thành bức tranh Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, nổi bật với bức chân dung của người lính Tây Bắc:

Dốc lén khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời.

Hình ảnh “khúc khuỷu” hiện lên làm ta cảm giác con đường đi đầy khó khăn, vất vả biết mây. “Dôc thăm thăm” lại làm cho những khó khăn ây dài thêm ra, sâu hút xuông, và cũng như tôn vị trí người lính đang đứng lên cao vòi vọi, sau khi đã vượt lên những con đường ngoằn ngoèo, uốn khúc. Đọc câu thơ trên ta cảm nhận rất rõ những bước chân nặng nề gắng gượng, những hơi thở nặng nhọc cùa người lính khi vượt qua hết con dốc này đến con dốc khác, dốc chồng lên dốc. hết dốc lên cao lại dốc lao xuống vô cùng vô tận. Thiên nhiên, địa hình khắc nghiệt của Tây Bắc hiện lên rõ nét, sinh động qua nét bút táo bạo, khỏe, gân guốc, ngôn ngữ có tính chạm khắc với một loạt những từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”. Câu thơ có bảy chữ mà có tới năm thanh trắc nghe sao thật nhọc nhằn, vất vả. Trở lại gần ba trăm năm về trước, khi miêu tả con đường đưa Kiều đến lầu xanh, đại thi hào Nguyễn Du cũng từng viết: Vó câu khấp khênh bảnh xe gập ghềnh {Truyện Kiều).
Cũng như Nguyễn Du, Quang Dũng đã sử dụng những thanh trắc để làm nổi bật con đường Tây Tiến gian khổ và hiểm trở. Lời thơ gợi cho người đọc hình dung về địa hình khắc nghiệt trước không gian bao la của đất trời. Bằng từ láy “khúc khuỷu”, “heo hút” cùng “dốc” nối “dốc”. Quang Dũng đã mở ra một không gian ba chiều khiến hình ảnh thơ được chạm nổi thành bức tranh phù điêu của tạo hóa nơi núi rừng Tây Bắc hùng vĩ. Song, dù thiên nhiên có khắc nghiệt đến đâu. chặng đường có gian khổ cách mấy thì người lính Tây Tiến vẫn hiên ngang, oai dũng vô cùng qua hình ảnh: Heo hút cồn mây súng ngửi trời.

Giữa cái xa xôi, hiu hắt, vòi vọi của độ cao, nơi nguy hiểm chồng chất dựng lên thành dốc, thành cồn, người lính đứng đó, mái đầu và đầu súng như chạm vào mây trời, ngang tàng, hiên ngang và khí phách. Hình ảnh thơ mang nét tinh nghịch “súng ngửi trời” đã nhấn đậm thêm vào vẻ đẹp ấy của người lính. Ta thấy con người và cây súng đã làm chủ được thiên nhiên, đã chế ngự được những khắc nghiệt, thử thách gian lao của một vùng sơn cước Lam Sơn chướng khí – Ma thiêng nước độc. Quang Dũng đã sử dụng một hình ảnh hết sức sáng tạo, và vô cùng đăc địa. Chỉ một từ “ngửi” đã nói lên được cái ngông, cái ngang tàng của người lính trẻ. Đó không phải là “chạm trời”, hay “chọc trời” mà cây súng ở đây lại “ngửi trời”? Bao nhiêu gian lao khi vượt dốc, băng đường, trở thành một việc vô cùng đơn giản, dễ dàng, cỏn con, chỉ để người lính “ngửi” xem trời như thế nào mà thôi. Trung tâm thần hứng của đoạn thơ dồn vào ba chữ “súng ngửi trời”. Quang Dũng không nói người lính mà ta vẫn thấy người lính, từ “ngửi” vẽ ra hình ảnh người lính chót vót trên đỉnh núi, là một nhân hóa tinh nghịch gợi ra vẻ đùa vui tếu táo. Nếu chỉ là “súng chạm trời” câu thơ sẽ làm mất đi vẻ ngang tàng và bản lĩnh của những anh lính ra đi từ thủ đô hoa lệ. Họ đã vượt qua và chinh phục được thiên nhiên với một vẻ đẹp riêng: Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều.

Đen đây nhà thơ tiếp tục nhớ lại những chặng đường hành quân gian khổ của người lính từ đó làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của họ:

Ngàn thước lẽn cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Câu thơ ngắt nhịp 4/3 cùng với điệp từ “ngàn” ở hai vế thơ kết họp với động từ chỉ hướng “lên” “xuông” tạo nên nét gập gây đây ân tượng, gợi cho ta hình dung những con dôc đột ngột dựng đứng rồi đột ngột hạ xuống đầy hiểm trờ. Thế nhưng bước chân người lính đã vượt qua được tất cả, chinh phục được thiên nhiên và cảm nhận vẻ đẹp của đất trời Tây Bắc: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. Câu thơ như giai điệu buông thả mở ra hình ảnh người lính dừng chân, phóng tâm măt ra xa đê thây những mái nhà nơi bản làng thâp thoáng, mờ ảo trong màn mưa trắng xóa đất trời. Câu thơ đã gợi lên cái phiêu diêu, chơi vơi, bay bổng nhẹ tênh của không gian rộng mở. Những mòi mệt đã lùi hết về phía sau. vương lại nơi những khấp khểnh đường đi mà người lính đã vượt qua. Người lính bây giờ chỉ thấy khung cảnh trước mat trải ra ngút ngàn: những ngôi nhà xa xôi, chìm khuất ẩn hiện trong màn mưa, gợi lên sự bâng khuâng và thoáng thầm lặng trong nỗi nhớ quê nhà.

Đoạn thơ có thể tái hiện lại chặng đường đầy gian khổ cũng như vẻ đẹp của người lính Tây Tiến là nhờ bút pháp lãng mạn. Những gian khó, nhọc nhằn được tái hiện lại thật sắc nét qua những hình ảnh “dốc”, “núi”, “cồn mây”… Ngoài ra thủ pháp đối lập còn tạo nên sự chông chênh, chót vót của hình ảnh con người trên đỉnh núi cheo leo. Cũng có thể nói, đoạn thơ là một phần đặc trưng cho phong cách nghệ thuật của Quang Dũng: Viết rất hay về người lính vệ quốc, trong thế giới nghệ thuật của ông luôn có một ngòi bút giàu chất lãng mạn, có khả năng diễn tả tinh tế một vẻ đẹp của thiên nhiên, con người.

Cũng là một nỗi nhớ về nơi đã từng gắn bó trong những năm tháng hoạt động cách mạng, song ta lại bắt gặp một phong cách thơ hoàn toàn khác với Tây Tiến, đồng thời mang một vẻ đẹp riêng, đó là bài Việt Bắc của Tố Hữu. Nếu như Tây Tiến được viết theo thể thất ngôn trường thiên thì Cz’ệ/ Bắc được Tố Hữu viết theo thể thơ lục bát, mang ít nhiều âm hưởng của ca dao, dân ca. Đến với đoạn thơ trong Việt Bắc của Tố Hữu, người đọc lại có dịp khám phá “vân chữ” “không trộn lẫn” của Tố Hữu – một nhà thơ, hồn thơ của dân tộc. Trong giây phút chia tay đầy bịn rịn, luyến tiếc, hình ảnh Việt Bắc trong hồi tưởng của các cán bộ cách mạng dần hiện lên như một thước phim quay “chậm về” cuộc sổng trong “mười lăm năm ấy” Có lẽ chẳng có ai “thật” hơn Tố Hữu khi so sánh: Nhớ gì như nhớ người yêu. Nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ như thế nào?

Đó là nỗi nhớ mà chỉ có những người từng trải qua cảm giác yêu rồi mới có thể hiếu rõ được. Tố Hữu đã từng tâm sự với Moselle Gansel – một nhà nghiên cửu văn học người Pháp, rằng ông đã phải lòng đất nước mình, vậy cho nên ông nhớ đất nước mình, yêu đất nước mình như nhớ, như yêu hai người đàn bà trong trái tim ông. Chính vì thế mà Tố Hữu mới có thể viết ra một câu thơ lãng mạn đến vậy để miêu tả nỗi nhớ về Việt Bắc Nhớ gì như nhớ người yêu. Đó là nét riêng trong sáng tạo, một hình ảnh thơ mà chỉ có Tố Hữu mới hiểu rõ và viết ra đầy tình cảm khiến ta liên tưởng đến câu ca dao: Nhớ ai bổi hổi bồi hồi/ Như đímg đổng lửa như ngồi đổng than. Cách liên tưởng này cũng tô đậm thêm tấm lòng nặng tình, nặng nghĩa, trước sau như một của người ra đi dành cho người ở lại!

Đâu chỉ có người ở lại mới mang nỗi nhớ nặng lòng, người ra đi cũng nhớ lắm những ngày tháng cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, những vẻ đẹp rất Việt Bắc không nơi đâu có: Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương. Hai vế câu thơ là chỉ thời gian đôi lứa hò hẹn nhau. Người Việt Bắc cần mẫn, lam lũ, nên thời gian nghỉ ngơi trong ngày là rất ít, những chàng trai cô gái chỉ có thể gặp gỡ nhau khi trăng đã lên ngang tầm đỉnh núi, hoàng hôn đã buông lưng chừng nương rẫy mà thôi. Có lẽ bời vậy cho nên khung cảnh khi đó mới là đẹp nhất, lãng mạn nhất trong ngày, nên đã để lại ấn tượng trong Tố Hữu một cách rõ nét và sâu sắc hơn cả. Khung cảnh thơ mộng, thi vị ấy chỉ có ở vùng chiến khu Việt Bắc lịch sử. “Trăng” và “nắng” vẫn là hai hình ảnh thơ không còn xa lạ gì trong kho tàng thơ Việt Nam. Hồ Chủ tịch từng có một hình ảnh trăng rất thơ mộng, yên tĩnh: Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền {Rằm tháng giêng). Thế nhưng hai hình ảnh này được đặt trong không gian đặc trưng của Việt Bắc lại mang vẻ đẹp rất riêng, gợi ra cái thơ mộng cùng vẻ hoang dã của rừng núi. Đây cũng là thời gian hò hẹn của lứa đôi. Bóng dáng những chàng trai và những cô gái e ấp, hẹn hò đôi lứa tự bao giờ đã trở thành một phẩm chất của cành Việt Bắc thanh bình, là ký ức không thể quên của những cán bộ cách mạng khi về xuôi chia tay Việt Bắc. Họ ra đi mang theo dư âm của khung cảnh thi vị và mang theo cả hình ảnh bản làng chìm khuất giữa khói sương hư ảo.

Nằm bình yên giữa núi cao và nương rẫy là những bản làng người dân tộc vùng cao. Khói bếp thổi cơm đưa lên hòa cùng với sương sớm và sương chiều buông phủ xa mờ, tạo nên một bức tranh nên thơ, lãng mạn mơ màng:

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lừa người thương đi về.

Trong những ngôi nhà chìm khuất trong khói suông ấy là hình ảnh cô thôn nữ tảo tần. Những cô gái Việt Bắc thao thức chờ đợi bên bếp lửa gợi lên không gian ấm áp tình người và cả tình đời, lưu giữ lại trong tác giả một hình ảnh thân thương, ấm áp. Trong nỗi nhớ về quá khứ, ta thấy được cả hơi ấm của tình người, tình đời mà quân dân dành cho nhau suốt mười lăm năm trường kì kháng chiến.

Việt Bắc có những vùng bạt ngàn tre nứa, mang đầy sức sống và cũng mang bóng dáng của con người nơi đây và những vẻ đẹp giản dị, mộc mạc mà ngay thẳng, kiên cường bất khuất. Tác giả nhớ về rừng tre nứa cũng là nhớ phẩm chất của con người nơi đây:

từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.

Ngày mới đến, tre nứa trải dài, bát ngát sức sống như mang bóng dáng của những con người nơi đây. Ngày họ đi, tre nứa còn là biểu tượng cho tâm hồn cả một đồng bào sắt son, thủy chung tình nghĩa bởi khi nhớ đến loài tre, họ sẽ nhớ đến những tháng ngày chung sống trên miền núi phía Bắc này. Những địa danh ngòi Thìa, sông Đáy, suối Lê không chỉ là nơi lưu dấu những chiến công mà còn là nơi lưu giữ những kỉ niệm. Cho nên cái “ăm ắp” kia không chỉ là hình ảnh dòng nước mà còn là sự ăm ắp của nghĩa tình. Hai chữ “vơi đầy” không chỉ miêu tả dòng nước mà còn để chỉ sự ấm áp của nghĩa tình gắn bó giữa cán bộ cách mạng và người dân Việt Bắc suốt mười lăm năm dài kháng chiến. Hình ảnh Việt Bắc trong hồi tưởng ấy ít nhiều cũng thể hiện được tình cảm gắn bó tha thiết sâu nặng của cán bộ về xuôi dành cho những con người khoác “áo chàm”.

Khác với bài thơ Tây Tiến, đoạn trích trong Việt Bắc sử dụng ngôn từ mộc mạc, giản dị, ít mang giá trị tạo hình. Thể thơ truyền thống và cách so sánh, diễn đạt trong ca dao dân ca khiến bài thơ trở nên quen thuộc, dễ gần gũi với độc giả. Điều này cũng mang nét tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Tố Hữu, đậm đà tính dân tộc.

Hai đoạn thơ đều viết về một giai đoạn hào hùng của dân tộc: 1945 – 1954 – giai đoạn kháng chiến chống Pháp, nhưng bên cạnh chủ đề khác nhau còn được thể hiện theo hai phong cách nghệ thuật khác nhau. Một bên lãng mạn, tinh tế, một bên đậm đà tính dân tộc với khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. Sự khác nhau giữa hai phong cách là do Tố Hữu luôn song hành cùng các giai đoạn đấu tranh cách mạng của dân tộc, lại là một con người yêu nước, vui sướng khi được Đảng để góp sức cho nước nhà: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ/ Mặt trời chân lí chói qua tim. Vì vậy mà thơ Tố Hữu đậm tính dân tộc và khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. Còn Quang Dũng vốn là một nhà thơ mang ngòi bút với vẻ đẹp hào hoa, thanh lịch, lại từng trực tiếp tham gia vào đoàn binh Tây Tiến nên những kỉ niệm được khắc họa lại vô cùng chân thực.

Như vậy, mỗi bài thơ đều có phong cách rất riêng, khơi gợi lên trong lòng độc giả những sắc thái cảm xúc khác nhau. Đó chính là “vân chữ” của mỗi tác giả, tạo nên giá trị riêng cho mỗi bài thơ, làm nên sự nổi tiếng và sức sống lâu bền cho tác phẩm. Viết ra được những lời thơ như vậy là nhờ vào không chỉ tài năng mà còn là khả năng đào sâu tìm tòi những điều mới mẻ và những cảm xúc, cảm nhận riêng của từng tác giả. Có thể nói Tố Hữu và Quang Dũng là những người nghệ sĩ thứ thiệt với mỗi “dạng vân chữ” độc tồn, “không trộn lẫn” của riêng mình.

Sedrin từng nói: Vãn học vượt qua mọi quy luật băng hoại của thời gian. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết. Tây Tiến của Quang Dũng và Việt Bắc của Tố Hữu là những minh chứng hùng hôn cho nhận định muôn thuở ây. Nhưng vân thơ ây sẽ mãi ngân vang, bay xa trên thi đàn văn học nước nhà để mỗi người dân Việt Nam đều có quyền tự hào nói rằng chúng ta đã từng có một Tố Hữu như thế, một Quang Dũng như the!

Leave a comment